Content:
Xét nghiệm và hỗ trợ chẩn đoán
Nội dung của trang này:
Xét nghiệm và hỗ trợ chẩn đoán
Hình ảnh học
Nội dung của trang này:
Xét nghiệm và hỗ trợ chẩn đoán
Hình ảnh học
Xét nghiệm và hỗ trợ chẩn đoán
Các xét nghiệm (ví dụ: công thức máu toàn phần [CBC], xét nghiệm sinh hóa bao gồm phosphatase kiềm) phải được thực hiện trước khi điều trị ung thư bàng quang để xác định chính xác giai đoạn lâm sàng. Có thể xét nghiệm nước tiểu để đánh giá tình trạng tiểu máu, trong khi cấy nước tiểu có thể được sử dụng để loại trừ nhiễm trùng đường tiết niệu, đặc biệt nếu có các triệu chứng tiểu kích ứng.
Tế bào học nước tiểu
Xét nghiệm nước tiểu hoặc dịch rửa bàng quang để tìm tế bào ung thư đã bong tróc có độ nhạy cao ở các bướu grade cao và là một chỉ điểm hữu ích trong các trường hợp ung thư grade cao hoặc CIS, nhưng độ nhạy thấp ở các bướu grade 1. Xét nghiệm này hữu ích như một phương pháp hỗ trợ cho nội soi bàng quang khi có bướu ung thư grade 3 hoặc CIS. Kết quả xét nghiệm tế bào học nước tiểu dương tính có thể cho thấy có bướu biểu mô niệu mạc ở bất kỳ vị trí nào trong đường tiết niệu; tuy nhiên, kết quả xét nghiệm tế bào học âm tính không loại trừ sự hiện diện của bướu.
Bladder Cancer_Diagnostics 1
Tế bào học nước tiểu
Xét nghiệm nước tiểu hoặc dịch rửa bàng quang để tìm tế bào ung thư đã bong tróc có độ nhạy cao ở các bướu grade cao và là một chỉ điểm hữu ích trong các trường hợp ung thư grade cao hoặc CIS, nhưng độ nhạy thấp ở các bướu grade 1. Xét nghiệm này hữu ích như một phương pháp hỗ trợ cho nội soi bàng quang khi có bướu ung thư grade 3 hoặc CIS. Kết quả xét nghiệm tế bào học nước tiểu dương tính có thể cho thấy có bướu biểu mô niệu mạc ở bất kỳ vị trí nào trong đường tiết niệu; tuy nhiên, kết quả xét nghiệm tế bào học âm tính không loại trừ sự hiện diện của bướu.
Bladder Cancer_Diagnostics 1Hình ảnh học
Các đánh giá hình ảnh học
Chụp X-quang ngực được chỉ định nếu nghi ngờ bệnh xâm lấn (ví dụ: di căn phổi). CT hoặc MRI được khuyến cáo nếu sau khi nội soi bàng quang cho thấy bướu đặc, grade cao, hoặc gợi ý xâm lấn cơ, hoặc nếu đang cân nhắc điều trị triệt để đối với bệnh tiến xa tại chỗ hoặc di căn. MRI vùng chậu có hoặc không có thuốc cản từ được khuyến cáo để xếp giai đoạn của các bướu không xâm lấn cơ dính hoặc grade cao, bên cạnh chụp CT tiết niệu. CT hoặc MRI vùng bụng và chậu được khuyến cáo trước TURBT để xác định đặc điểm giải phẫu của tổn thương và xác định độ sâu của xâm lấn.
Chụp CT
Lựa chọn đầu tiên cho việc tầm soát ung thư bàng quang không xâm lấn cơ ở nhiều nước châu Á là chụp CT. Chụp CT có hoặc không có thuốc cản quang cũng là phương pháp chẩn đoán hình ảnh được ưu tiên để xếp giai đoạn ung thư bàng quang xâm lấn cơ. Chụp CT ngực, bụng và khung chậu rất cần thiết trong việc xếp giai đoạn ung thư bàng quang xâm lấn cơ tại chỗ và ung thư bàng quang di căn. Chụp cắt lớp phát xạ fluorodeoxyglucose-positron (FDG-PET)/CT có thể được sử dụng ở một số bệnh nhân có bệnh xâm lấn cơ T2 và ở những bệnh nhân có bệnh ≥cT3. Phương pháp này cũng có thể được sử dụng để đánh giá di căn ngoài xương nghi ngờ hoặc đã được ghi nhận trước đó. Chụp CT thận 4 pha sử dụng máy CT đa đầu dò (MDCT) đã được sử dụng để phát hiện và xếp giai đoạn bướu bàng quang. Các pha bao gồm pha tiền cản quang, pha vỏ tủy, pha chụp thận và pha bài tiết. Chụp CT đường tiết niệu được sử dụng để xếp giai đoạn bệnh và phát hiện bướu nhú trong đường tiết niệu, có thể được nhìn thấy dưới dạng khuyết về lấp đầy hoặc được chỉ định bởi tình trạng ứ nước thận. Ở những bệnh nhân có thể tiêm thuốc cản quang tĩnh mạch an toàn, đây là phương pháp được ưu tiên. Chụp CT không cản quang kết hợp với chụp bể thận niệu quản ngược dòng là một lựa chọn cho những bệnh nhân có chống chỉ định với thuốc cản quang gốc iod hoặc gadolinium. Cuối cùng, chụp CT não có cản quang chỉ có thể được sử dụng cho những bệnh nhân có triệu chứng nếu chống chỉ định chụp MRI.
MRI
Chụp cộng hưởng từ vùng chậu có hoặc không có thuốc cản từ được sử dụng để xếp giai đoạn các bướu không xâm lấn cơ dính hoặc grade cao và các bướu xâm lấn cơ, bên cạnh chụp cắt lớp vi tính tiết niệu. Chụp cộng hưởng từ đa thông số (mpMRI) sử dụng hệ thống chấm điểm VI-RADS (Hệ thống Báo cáo và Dữ liệu Hình ảnh Bàng quang) có thể phân biệt ung thư bàng quang xâm lấn cơ và không xâm lấn cơ. Chụp cộng hưởng từ tiết niệu là một lựa chọn chẩn đoán hình ảnh cho bệnh nhân có tình trạng thận kém hoặc dị ứng thuốc cản quang gốc iod nhưng có độ lọc cầu thận (GFR) > 30 mL/phút mà không bị suy thận cấp. Chụp cộng hưởng từ não có thể giúp xác định di căn não ở bệnh nhân có triệu chứng hoặc nguy cơ cao.
Siêu âm
Siêu âm thận là một lựa chọn chẩn đoán hình ảnh khác dành cho bệnh nhân có chống chỉ định với thuốc cản quang gốc iod hoặc gadolinium. Siêu âm ngả bụng cho phép xác định đặc điểm bướu thận, phát hiện ứ nước thận và hình ảnh bướu trong lòng bàng quang. Đây cũng là một công cụ hữu ích để phát hiện tắc nghẽn ở bệnh nhân tiểu máu.
Các kỹ thuật hình ảnh khác
Chụp niệu đồ tĩnh mạch có thể là một lựa chọn thay thế nếu không có CT. Xạ hình xương được thực hiện nếu có phosphatase kiềm tăng cao, tăng canxi máu hoặc đau xương.
Nội soi bàng quang
Nội soi bàng quang nên được thực hiện ở những bệnh nhân có triệu chứng ung thư bàng quang để xác định xem có tổn thương hay không. Nếu có tổn thương, bệnh nhân nên thực hiện TURBT để xác định chẩn đoán và mức độ bệnh trong bàng quang. Xét nghiệm tế bào học nước tiểu cũng có thể được thực hiện vào thời điểm nội soi bàng quang. Nội soi bàng quang nâng cao bao gồm nội soi bàng quang với ánh sáng trắng, ánh sáng xanh và dải tần ánh sáng hẹp. Tiêu chuẩn hiện tại trong đánh giá và phân loại ung thư bàng quang là nội soi bàng quang ánh sáng trắng, nhưng trong phát hiện ung thư bàng quang không xâm lấn cơ, đặc biệt là CIS, người ta thấy rằng nội soi bàng quang ánh sáng xanh hiệu quả hơn ánh sáng trắng. Các nghiên cứu cho thấy việc sử dụng dải tần ánh sáng hẹp làm giảm đáng kể tái phát bệnh sau 1 năm ở những bệnh nhân có nguy cơ thấp và cho tỷ lệ phát hiện tổn thương phẳng cao hơn. Chẩn đoán ung thư bàng quang thể nhú cuối cùng phụ thuộc vào việc kiểm tra bàng quang bằng nội soi và đánh giá mô học của mô cắt bỏ.
Bladder Cancer_Diagnostics 2
Chẩn đoán quang động học (Nội soi bàng quang huỳnh quang)
Chẩn đoán quang động học (nội soi bàng quang huỳnh quang) được thực hiện bằng ánh sáng tím sau khi bơm acid 5-aminolevulinic (ALA) hoặc acid hexaminolevulinic (HAL) vào bàng quang. Phương pháp này có thể được cân nhắc để đánh giá sự hiện diện của bướu T1 grade cao và kèm theo CIS. Sinh thiết và cắt bỏ dưới hướng dẫn huỳnh quang nhạy hơn các phương pháp cổ điển trong việc phát hiện bước ác tính, đặc biệt là CIS, nhưng chẩn đoán quang động học có độ đặc hiệu thấp hơn so với nội soi bàng quang ánh sáng trắng.
Chụp X-quang ngực được chỉ định nếu nghi ngờ bệnh xâm lấn (ví dụ: di căn phổi). CT hoặc MRI được khuyến cáo nếu sau khi nội soi bàng quang cho thấy bướu đặc, grade cao, hoặc gợi ý xâm lấn cơ, hoặc nếu đang cân nhắc điều trị triệt để đối với bệnh tiến xa tại chỗ hoặc di căn. MRI vùng chậu có hoặc không có thuốc cản từ được khuyến cáo để xếp giai đoạn của các bướu không xâm lấn cơ dính hoặc grade cao, bên cạnh chụp CT tiết niệu. CT hoặc MRI vùng bụng và chậu được khuyến cáo trước TURBT để xác định đặc điểm giải phẫu của tổn thương và xác định độ sâu của xâm lấn.
Chụp CT
Lựa chọn đầu tiên cho việc tầm soát ung thư bàng quang không xâm lấn cơ ở nhiều nước châu Á là chụp CT. Chụp CT có hoặc không có thuốc cản quang cũng là phương pháp chẩn đoán hình ảnh được ưu tiên để xếp giai đoạn ung thư bàng quang xâm lấn cơ. Chụp CT ngực, bụng và khung chậu rất cần thiết trong việc xếp giai đoạn ung thư bàng quang xâm lấn cơ tại chỗ và ung thư bàng quang di căn. Chụp cắt lớp phát xạ fluorodeoxyglucose-positron (FDG-PET)/CT có thể được sử dụng ở một số bệnh nhân có bệnh xâm lấn cơ T2 và ở những bệnh nhân có bệnh ≥cT3. Phương pháp này cũng có thể được sử dụng để đánh giá di căn ngoài xương nghi ngờ hoặc đã được ghi nhận trước đó. Chụp CT thận 4 pha sử dụng máy CT đa đầu dò (MDCT) đã được sử dụng để phát hiện và xếp giai đoạn bướu bàng quang. Các pha bao gồm pha tiền cản quang, pha vỏ tủy, pha chụp thận và pha bài tiết. Chụp CT đường tiết niệu được sử dụng để xếp giai đoạn bệnh và phát hiện bướu nhú trong đường tiết niệu, có thể được nhìn thấy dưới dạng khuyết về lấp đầy hoặc được chỉ định bởi tình trạng ứ nước thận. Ở những bệnh nhân có thể tiêm thuốc cản quang tĩnh mạch an toàn, đây là phương pháp được ưu tiên. Chụp CT không cản quang kết hợp với chụp bể thận niệu quản ngược dòng là một lựa chọn cho những bệnh nhân có chống chỉ định với thuốc cản quang gốc iod hoặc gadolinium. Cuối cùng, chụp CT não có cản quang chỉ có thể được sử dụng cho những bệnh nhân có triệu chứng nếu chống chỉ định chụp MRI.
MRI
Chụp cộng hưởng từ vùng chậu có hoặc không có thuốc cản từ được sử dụng để xếp giai đoạn các bướu không xâm lấn cơ dính hoặc grade cao và các bướu xâm lấn cơ, bên cạnh chụp cắt lớp vi tính tiết niệu. Chụp cộng hưởng từ đa thông số (mpMRI) sử dụng hệ thống chấm điểm VI-RADS (Hệ thống Báo cáo và Dữ liệu Hình ảnh Bàng quang) có thể phân biệt ung thư bàng quang xâm lấn cơ và không xâm lấn cơ. Chụp cộng hưởng từ tiết niệu là một lựa chọn chẩn đoán hình ảnh cho bệnh nhân có tình trạng thận kém hoặc dị ứng thuốc cản quang gốc iod nhưng có độ lọc cầu thận (GFR) > 30 mL/phút mà không bị suy thận cấp. Chụp cộng hưởng từ não có thể giúp xác định di căn não ở bệnh nhân có triệu chứng hoặc nguy cơ cao.
Siêu âm
Siêu âm thận là một lựa chọn chẩn đoán hình ảnh khác dành cho bệnh nhân có chống chỉ định với thuốc cản quang gốc iod hoặc gadolinium. Siêu âm ngả bụng cho phép xác định đặc điểm bướu thận, phát hiện ứ nước thận và hình ảnh bướu trong lòng bàng quang. Đây cũng là một công cụ hữu ích để phát hiện tắc nghẽn ở bệnh nhân tiểu máu.
Các kỹ thuật hình ảnh khác
Chụp niệu đồ tĩnh mạch có thể là một lựa chọn thay thế nếu không có CT. Xạ hình xương được thực hiện nếu có phosphatase kiềm tăng cao, tăng canxi máu hoặc đau xương.
Nội soi bàng quang
Nội soi bàng quang nên được thực hiện ở những bệnh nhân có triệu chứng ung thư bàng quang để xác định xem có tổn thương hay không. Nếu có tổn thương, bệnh nhân nên thực hiện TURBT để xác định chẩn đoán và mức độ bệnh trong bàng quang. Xét nghiệm tế bào học nước tiểu cũng có thể được thực hiện vào thời điểm nội soi bàng quang. Nội soi bàng quang nâng cao bao gồm nội soi bàng quang với ánh sáng trắng, ánh sáng xanh và dải tần ánh sáng hẹp. Tiêu chuẩn hiện tại trong đánh giá và phân loại ung thư bàng quang là nội soi bàng quang ánh sáng trắng, nhưng trong phát hiện ung thư bàng quang không xâm lấn cơ, đặc biệt là CIS, người ta thấy rằng nội soi bàng quang ánh sáng xanh hiệu quả hơn ánh sáng trắng. Các nghiên cứu cho thấy việc sử dụng dải tần ánh sáng hẹp làm giảm đáng kể tái phát bệnh sau 1 năm ở những bệnh nhân có nguy cơ thấp và cho tỷ lệ phát hiện tổn thương phẳng cao hơn. Chẩn đoán ung thư bàng quang thể nhú cuối cùng phụ thuộc vào việc kiểm tra bàng quang bằng nội soi và đánh giá mô học của mô cắt bỏ.
Bladder Cancer_Diagnostics 2Chẩn đoán quang động học (Nội soi bàng quang huỳnh quang)
Chẩn đoán quang động học (nội soi bàng quang huỳnh quang) được thực hiện bằng ánh sáng tím sau khi bơm acid 5-aminolevulinic (ALA) hoặc acid hexaminolevulinic (HAL) vào bàng quang. Phương pháp này có thể được cân nhắc để đánh giá sự hiện diện của bướu T1 grade cao và kèm theo CIS. Sinh thiết và cắt bỏ dưới hướng dẫn huỳnh quang nhạy hơn các phương pháp cổ điển trong việc phát hiện bước ác tính, đặc biệt là CIS, nhưng chẩn đoán quang động học có độ đặc hiệu thấp hơn so với nội soi bàng quang ánh sáng trắng.
