Content:
Giới thiệu
Nội dung của trang này:
Giới thiệu
Dịch tễ học
Sinh lý bệnh
Yếu tố nguy cơ
Phân loại
Nội dung của trang này:
Giới thiệu
Dịch tễ học
Sinh lý bệnh
Yếu tố nguy cơ
Phân loại
Giới thiệu
Ung thư bàng quang là sự tăng sinh không kiểm soát của các tế bào ung thư trong bàng quang, một tạng rỗng của vùng chậu.
Dịch tễ học
Ung thư bàng quang là loại ung thư phổ biến nhất liên quan đến hệ tiết niệu và là loại ung thư được chẩn đoán phổ biến thứ mười trên thế giới. Đây là loại ung thư phổ biến thứ sáu ở Hoa Kỳ (US), thứ mười một ở Vương quốc Anh (UK) và thứ mười bốn ở châu Á, là loại ung thư phổ biến thứ chín ở nam giới tại Malaysia và là loại ung thư phổ biến thứ mười ở nam giới tại Singapore. Loại mô học chiếm ưu thế của ung thư bàng quang là ung thư biểu mô niệu mạc (tế bào chuyển tiếp). Các loại mô học ít phổ biến hơn bao gồm ung thư biểu mô tế bào vảy và ung thư biểu mô tuyến. Loại ung thư này phổ biến ở nam giới gấp 3 đến 4 lần so với nữ giới. Ung thư bàng quang là loại ung thư phổ biến thứ bảy ở nam giới và thứ mười bảy ở nữ giới, nhưng phụ nữ thường biểu hiện bệnh ở giai đoạn tiến xa hơn và có sống còn thấp hơn.
Sinh lý bệnh
Cơ chế sinh bệnh của ung thư bàng quang do nhiều yếu tố và phức tạp, liên quan đến các con đường cụ thể dẫn đến sự phân chia tế bào không kiểm soát. Hiện nay, có hai con đường sinh bệnh mô tả sự phát triển của hai loại ung thư bàng quang: ung thư bàng quang không xâm lấn cơ và ung thư bàng quang xâm lấn cơ. Ở một con đường sinh bệnh, ung thư bàng quang không xâm lấn cơ liên quan đến biểu mô niệu mạc chu kỳ chậm, dẫn đến sự tăng sản biểu mô niệu mạc. Trong trường hợp này, ung thư phát triển khi biểu mô niệu mạc tăng sản bắt đầu phát triển thành ác tính. Con đường này liên quan đến thay đổi một số gen, bao gồm thụ thể yếu tố tăng trưởng nguyên bào sợi 3 (FGFR3) và gen virus sinh ung sarcôm ở chuột Harvey (HRAS). Cần lưu ý rằng đột biến FGFR3 được tìm thấy trong các bướu ung thư bàng quang dạng nhú Ta, trong khi đột biến HRAS xuất hiện trong 30% các trường hợp. Ở con đường sinh bệnh còn lại, ung thư bàng quang xâm lấn cơ bắt nguồn từ ung thư biểu mô tại chỗ (CIS), hoặc các tổn thương nhú grade cao, hoặc loạn sản nặng. Những bướu này thường là kết quả của sự bất hoạt các con đường TP53, RB1 hoặc PTEN.
Yếu tố nguy cơ
Hút thuốc lá chủ động và thụ động là yếu tố nguy cơ quan trọng nhất gây ung thư bàng quang vì khói thuốc lá chứa amin thơm và hydrocarbon thơm đa vòng được bài tiết qua thận. Nghề nghiệp có tiếp xúc với amin thơm, hydrocarbon thơm đa vòng và hydrocarbon clo hóa là yếu tố nguy cơ quan trọng thứ hai gây ung thư bàng quang. Điều này xảy ra chủ yếu ở các nhà máy công nghiệp chế biến sơn, thuốc nhuộm, kim loại và các sản phẩm dầu mỏ. Tuổi cao cũng là một yếu tố nguy cơ, và độ tuổi chẩn đoán trung bình là 73 tuổi. Tiếp xúc với bức xạ ion hóa có liên quan đến việc tăng nguy cơ. Nguy cơ mắc ung thư bàng quang cao hơn ở những bệnh nhân đang xạ trị ngoài, xạ trị áp sát hoặc kết hợp. Bệnh sán máng bàng quang (Schistosoma haematobium) có mối liên hệ rõ ràng với ung thư biểu mô tế bào vảy của bàng quang. Yếu tố di truyền đã được chứng minh là ảnh hưởng đến tỷ lệ mắc ung thư bàng quang thông qua tác động của nó đến khả năng mắc các yếu tố nguy cơ khác. Ví dụ, nguy cơ mắc ung thư bàng quang cao hơn ở những người thân thế hệ một và hai. Các đột biến di truyền ở các gen giải độc chất sinh ung như N-acetyltransferase 2 (NAT2) và glutathione S-transferase mu 1 (GSTM1) có liên quan đến nguy cơ mắc ung thư bàng quang.
Bladder Cancer_Disease Background
Bladder Cancer_Disease BackgroundPhân loại
Ung thư bàng quang được phân loại thành ung thư bàng quang không xâm lấn cơ và ung thư bàng quang xâm lấn cơ dựa trên mức độ xâm lấn, đặc điểm tế bào và thậm chí cả đặc điểm phân tử. Ung thư bàng quang không xâm lấn cơ là ung thư biểu mô niệu mạc giới hạn ở niêm mạc và dưới niêm mạc, không xâm lấn qua lớp cơ. Trong khi ung thư bàng quang xâm lấn cơ có xâm lấn lớp cơ và xâm nhập vào lớp cơ nông hoặc sâu của bàng quang, chúng cũng có thể lan sang các mô xung quanh khác.
