Content:
Giám sát
Nội dung của trang này:
Giám sát
Nội dung của trang này:
Giám sát
Giám sát
Ung thư bàng quang không xâm lấn cơ
Sau TURBT, nội soi bàng quang lần đầu tiên nên được thực hiện sau 3 tháng vì đây là chỉ số tiên lượng quan trọng về tái phát và tiến triển ở những bệnh nhân có bướu Ta, T1 và CIS. Đối với những bệnh nhân có nguy cơ thấp, nội soi bàng quang nên được thực hiện vào tháng thứ ba sau điều trị. Nếu âm tính, nội soi bàng quang tiếp theo được đề nghị sau 12 tháng, sau đó thực hiện hàng năm cho đến năm thứ năm sau điều trị. Chụp hình ảnh ban đầu được đề xuất trong năm đầu tiên và có thể thực hiện các đánh giá hình ảnh theo dõi khi có chỉ định lâm sàng. Những bệnh nhân nguy cơ trung bình có bướu Ta nên có một kế hoạch theo dõi giữa kỳ bằng nội soi bàng quang và tế bào học nước tiểu tùy theo các yếu tố cá nhân và chủ quan. Thực hiện nội soi bàng quang và tế bào học nước tiểu vào thời điểm 3, 6 và 12 tháng trong năm đầu tiên, sau mỗi 6 tháng trong năm thứ hai, sau đó mỗi năm một lần.
Những bệnh nhân có bướu nguy cơ cao nên thực hiện nội soi bàng quang và tế bào học nước tiểu mỗi 3 tháng trong 2 năm đầu, mỗi 6 tháng từ năm thứ ba đến năm thứ năm, sau đó hàng năm. Nên chụp hình ảnh đường tiết niệu trên làm nền tảng trong lần theo dõi đầu tiên và sau 12 tháng, sau đó cứ 1 đến 2 năm một lần cho đến 10 năm sau điều trị, và tùy theo chỉ định lâm sàng sau đó. Khuyến cáo nên xét nghiệm tế bào học nước tiểu mỗi 3 tháng trong 2 năm đầu, sau đó mỗi 6 tháng trong 3 năm tiếp theo, và hàng năm sau đó.
Đối với bệnh nhân sau cắt bàng quang, khuyến cáo chụp CT hoặc MRI đường tiết niệu sau 3 và 12 tháng, sau đó hàng năm cho đến 5 năm sau cắt bàng quang, và siêu âm thận hàng năm sau đó. Khuyến cáo xét nghiệm creatinine, điện giải đồ và chức năng gan (LFT) mỗi 3-6 tháng trong năm đầu theo dõi, sau đó hàng năm. Nên xét nghiệm nồng độ vitamin B12 hàng năm sau năm đầu tiên sau cắt bàng quang. Nếu đã được hóa trị, nên cân nhắc xét nghiệm công thức máu toàn phần và sinh hóa toàn diện mỗi 3-6 tháng trong năm đầu tiên theo dõi. Khuyến cáo xét nghiệm tế bào học nước tiểu mỗi 6-12 tháng trong năm đầu tiên, và nên cân nhắc xét nghiệm tế bào dịch rửa niệu đạo mỗi 6-12 tháng, đặc biệt nếu phát hiện thấy Tis trong bàng quang hoặc niệu đạo tuyến tiền liệt.
Trong quá trình theo dõi, ở những bệnh nhân có tế bào học dương tính và không nhìn thấy bướu trong bàng quang, khuyến cáo nên sinh thiết theo vị trí đã đánh dấu chọn lọc hoặc sinh thiết ngẫu nhiên, hoặc sinh thiết kèm chẩn đoán quang động và khảo sát các vị trí ngoài bàng quang bao gồm chụp CT đường tiết niệu và sinh thiết niệu đạo tuyến tiền liệt.
Bladder Cancer_Follow-Up
Ung thư bàng quang xâm lấn cơ
Sau phẫu thuật cắt bàng quang tận gốc, việc tái khám nên bao gồm chụp X-quang ngực, đường tiết niệu trên, bụng và khung chậu mỗi 3-6 tháng trong 2 năm dựa trên nguy cơ tái phát, sau đó theo chỉ định lâm sàng. Chụp CT hoặc MRI đường tiết niệu và chụp X-quang ngực hoặc CT mỗi 3-6 tháng được khuyến cáo trong 2 năm đầu và hàng năm sau đó. Siêu âm thận hàng năm được khuyến nghị sau 5 năm theo dõi. Có thể chụp FDG-PET/CT để xác định sự hiện diện của bệnh di căn. Lịch trình khuyến cáo dành cho creatinine và điện giải đồ, xét nghiệm chức năng gan (LFT), nồng độ vitamin B12, công thức máu toàn phần, xét nghiệm sinh hóa toàn diện và tế bào học nước tiểu giống như đối với bệnh ung thư bàng quang không xâm lấn cơ. Sau phẫu thuật cắt bàng quang một phần hoặc hóa xạ đồng thời, việc theo dõi tương tự như phẫu thuật cắt bàng quang tận gốc, bổ sung thêm việc theo dõi tái phát bàng quang bằng nội soi bàng quang định kỳ mỗi 3 tháng trong 2 năm đầu, mỗi 6 tháng trong năm thứ 3 và 4, hàng năm cho đến 10 năm sau cắt bàng quang, và sau đó theo quyết định của bác sĩ. Hầu hết các trung tâm ở châu Á đều có nội soi bàng quang kiểm tra sau 3 tháng điều trị hỗ trợ nội bàng quang, sau đó tăng dần tần suất nếu cần. Các dấu ấn sinh học niệu mạc (ví dụ: protein ma trận nhân 22 và kháng nguyên bướu bàng quang) có thể được sử dụng ở các nước châu Á.
Bệnh di căn
Đối với bệnh nhân có di căn, nên nội soi bàng quang định kỳ mỗi 3-6 tháng theo chỉ định lâm sàng. Nên xét nghiệm tế bào học nước tiểu trong khi nội soi bàng quang nếu bàng quang còn nguyên. Chụp CT hoặc MRI đường tiết niệu và chụp CT ngực, bụng và chậu nên được thực hiện mỗi 3-6 tháng nếu có chỉ định lâm sàng, hoặc nếu có triệu chứng mới hoặc thay đổi lâm sàng. Khuyến cáo xét nghiệm huyết học, như công thức máu toàn phần và xét nghiệm sinh hóa toàn diện, mỗi 1-3 tháng. Bệnh nhân sau cắt bàng quang nên được yêu cầu xét nghiệm nồng độ vitamin B12 hàng năm.
Sau TURBT, nội soi bàng quang lần đầu tiên nên được thực hiện sau 3 tháng vì đây là chỉ số tiên lượng quan trọng về tái phát và tiến triển ở những bệnh nhân có bướu Ta, T1 và CIS. Đối với những bệnh nhân có nguy cơ thấp, nội soi bàng quang nên được thực hiện vào tháng thứ ba sau điều trị. Nếu âm tính, nội soi bàng quang tiếp theo được đề nghị sau 12 tháng, sau đó thực hiện hàng năm cho đến năm thứ năm sau điều trị. Chụp hình ảnh ban đầu được đề xuất trong năm đầu tiên và có thể thực hiện các đánh giá hình ảnh theo dõi khi có chỉ định lâm sàng. Những bệnh nhân nguy cơ trung bình có bướu Ta nên có một kế hoạch theo dõi giữa kỳ bằng nội soi bàng quang và tế bào học nước tiểu tùy theo các yếu tố cá nhân và chủ quan. Thực hiện nội soi bàng quang và tế bào học nước tiểu vào thời điểm 3, 6 và 12 tháng trong năm đầu tiên, sau mỗi 6 tháng trong năm thứ hai, sau đó mỗi năm một lần.
Những bệnh nhân có bướu nguy cơ cao nên thực hiện nội soi bàng quang và tế bào học nước tiểu mỗi 3 tháng trong 2 năm đầu, mỗi 6 tháng từ năm thứ ba đến năm thứ năm, sau đó hàng năm. Nên chụp hình ảnh đường tiết niệu trên làm nền tảng trong lần theo dõi đầu tiên và sau 12 tháng, sau đó cứ 1 đến 2 năm một lần cho đến 10 năm sau điều trị, và tùy theo chỉ định lâm sàng sau đó. Khuyến cáo nên xét nghiệm tế bào học nước tiểu mỗi 3 tháng trong 2 năm đầu, sau đó mỗi 6 tháng trong 3 năm tiếp theo, và hàng năm sau đó.
Đối với bệnh nhân sau cắt bàng quang, khuyến cáo chụp CT hoặc MRI đường tiết niệu sau 3 và 12 tháng, sau đó hàng năm cho đến 5 năm sau cắt bàng quang, và siêu âm thận hàng năm sau đó. Khuyến cáo xét nghiệm creatinine, điện giải đồ và chức năng gan (LFT) mỗi 3-6 tháng trong năm đầu theo dõi, sau đó hàng năm. Nên xét nghiệm nồng độ vitamin B12 hàng năm sau năm đầu tiên sau cắt bàng quang. Nếu đã được hóa trị, nên cân nhắc xét nghiệm công thức máu toàn phần và sinh hóa toàn diện mỗi 3-6 tháng trong năm đầu tiên theo dõi. Khuyến cáo xét nghiệm tế bào học nước tiểu mỗi 6-12 tháng trong năm đầu tiên, và nên cân nhắc xét nghiệm tế bào dịch rửa niệu đạo mỗi 6-12 tháng, đặc biệt nếu phát hiện thấy Tis trong bàng quang hoặc niệu đạo tuyến tiền liệt.
Trong quá trình theo dõi, ở những bệnh nhân có tế bào học dương tính và không nhìn thấy bướu trong bàng quang, khuyến cáo nên sinh thiết theo vị trí đã đánh dấu chọn lọc hoặc sinh thiết ngẫu nhiên, hoặc sinh thiết kèm chẩn đoán quang động và khảo sát các vị trí ngoài bàng quang bao gồm chụp CT đường tiết niệu và sinh thiết niệu đạo tuyến tiền liệt.
Bladder Cancer_Follow-UpUng thư bàng quang xâm lấn cơ
Sau phẫu thuật cắt bàng quang tận gốc, việc tái khám nên bao gồm chụp X-quang ngực, đường tiết niệu trên, bụng và khung chậu mỗi 3-6 tháng trong 2 năm dựa trên nguy cơ tái phát, sau đó theo chỉ định lâm sàng. Chụp CT hoặc MRI đường tiết niệu và chụp X-quang ngực hoặc CT mỗi 3-6 tháng được khuyến cáo trong 2 năm đầu và hàng năm sau đó. Siêu âm thận hàng năm được khuyến nghị sau 5 năm theo dõi. Có thể chụp FDG-PET/CT để xác định sự hiện diện của bệnh di căn. Lịch trình khuyến cáo dành cho creatinine và điện giải đồ, xét nghiệm chức năng gan (LFT), nồng độ vitamin B12, công thức máu toàn phần, xét nghiệm sinh hóa toàn diện và tế bào học nước tiểu giống như đối với bệnh ung thư bàng quang không xâm lấn cơ. Sau phẫu thuật cắt bàng quang một phần hoặc hóa xạ đồng thời, việc theo dõi tương tự như phẫu thuật cắt bàng quang tận gốc, bổ sung thêm việc theo dõi tái phát bàng quang bằng nội soi bàng quang định kỳ mỗi 3 tháng trong 2 năm đầu, mỗi 6 tháng trong năm thứ 3 và 4, hàng năm cho đến 10 năm sau cắt bàng quang, và sau đó theo quyết định của bác sĩ. Hầu hết các trung tâm ở châu Á đều có nội soi bàng quang kiểm tra sau 3 tháng điều trị hỗ trợ nội bàng quang, sau đó tăng dần tần suất nếu cần. Các dấu ấn sinh học niệu mạc (ví dụ: protein ma trận nhân 22 và kháng nguyên bướu bàng quang) có thể được sử dụng ở các nước châu Á.
Bệnh di căn
Đối với bệnh nhân có di căn, nên nội soi bàng quang định kỳ mỗi 3-6 tháng theo chỉ định lâm sàng. Nên xét nghiệm tế bào học nước tiểu trong khi nội soi bàng quang nếu bàng quang còn nguyên. Chụp CT hoặc MRI đường tiết niệu và chụp CT ngực, bụng và chậu nên được thực hiện mỗi 3-6 tháng nếu có chỉ định lâm sàng, hoặc nếu có triệu chứng mới hoặc thay đổi lâm sàng. Khuyến cáo xét nghiệm huyết học, như công thức máu toàn phần và xét nghiệm sinh hóa toàn diện, mỗi 1-3 tháng. Bệnh nhân sau cắt bàng quang nên được yêu cầu xét nghiệm nồng độ vitamin B12 hàng năm.
