Content:
Biểu hiện lâm sàng
Nội dung của trang này:
Biểu hiện lâm sàng
Khám thực thể
Chẩn đoán và Tiêu chuẩn chẩn đoán
Nội dung của trang này:
Biểu hiện lâm sàng
Khám thực thể
Chẩn đoán và Tiêu chuẩn chẩn đoán
Biểu hiện lâm sàng
Dấu hiệu và triệu chứng
Tiểu máu vi thể hoặc đại thể, không đau là triệu chứng thường gặp nhất ở bệnh nhân ung thư bàng quang. Cần lưu ý rằng tiểu máu đại thể thường liên quan đến giai đoạn bệnh tiến xa hơn tiểu máu vi thể. Tiểu lắt nhắt do kích ứng hoặc giảm dung tích bàng quang cũng có thể xuất hiện. Ung thư biểu mô tại chỗ (CIS) có thể được nghi ngờ ở những bệnh nhân có triệu chứng đường tiết niệu dưới (ví dụ như tiểu gắt). Tiểu khó và tiểu gấp là những triệu chứng khác, và ít phổ biến hơn là nhiễm trùng đường tiết niệu (UTI). Tắc nghẽn hoặc đau đường tiết niệu trên có thể xảy ra ở những bướu tiến xa hơn.
Tiểu máu vi thể hoặc đại thể, không đau là triệu chứng thường gặp nhất ở bệnh nhân ung thư bàng quang. Cần lưu ý rằng tiểu máu đại thể thường liên quan đến giai đoạn bệnh tiến xa hơn tiểu máu vi thể. Tiểu lắt nhắt do kích ứng hoặc giảm dung tích bàng quang cũng có thể xuất hiện. Ung thư biểu mô tại chỗ (CIS) có thể được nghi ngờ ở những bệnh nhân có triệu chứng đường tiết niệu dưới (ví dụ như tiểu gắt). Tiểu khó và tiểu gấp là những triệu chứng khác, và ít phổ biến hơn là nhiễm trùng đường tiết niệu (UTI). Tắc nghẽn hoặc đau đường tiết niệu trên có thể xảy ra ở những bướu tiến xa hơn.
Khám thực thể
Nên khám bằng hai tay qua ngả trực tràng và âm đạo ở những bệnh nhân nghi ngờ ung thư bàng quang. Ở những bệnh nhân có bướu tiến xa tại chỗ, có thể sờ thấy được bướu vùng chậu. Để đánh giá xem có sờ thấy được bướu hay bướu đã dính vào thành chậu, nên khám bằng hai tay dưới gây mê trước và sau khi cắt bỏ bướu bàng quang qua niệu đạo (TURBT).
Chẩn đoán và Tiêu chuẩn chẩn đoán
Bệnh không xâm lấn cơ có thể được chẩn đoán ban đầu bằng nội soi bàng quang và tế bào học. Khi nghi ngờ, cần chụp hình ảnh hệ thống ống dẫn nước tiểu trên. CIS được chẩn đoán bằng cách kết hợp nội soi bàng quang, tế bào học nước tiểu và đánh giá mô học của nhiều mẫu sinh thiết bàng quang. Bệnh nhân nên được đánh giá sự hiện diện của di căn tại vùng hoặc di căn xa. Các xét nghiệm như nội soi bàng quang, chụp X-quang ngực/chụp cắt lớp vi tính (CT), xạ hình xương ở những bệnh nhân có triệu chứng hoặc phosphatase kiềm cao, và chụp hình ảnh đường niệu trên bằng CT/chụp cộng hưởng từ (MRI) vùng bụng và chậu có thể được thực hiện.
