Content:
Biểu hiện lâm sàng
Nội dung của trang này:
Biểu hiện lâm sàng
Tiền sử
Khám thực thể
Nội dung của trang này:
Biểu hiện lâm sàng
Tiền sử
Khám thực thể
Biểu hiện lâm sàng
Bệnh nhân có nốt, khối bướu hoặc áp xe ở vú. Triệu chứng phổ biến nhất của ung thư vú là một khối mới xuất hiện ở vú. Một khối bướu không đau, cứng, không đều có nhiều khả năng là ung thư; tuy nhiên, bướu cũng có thể mềm, tròn hoặc gây đau.
Các dấu hiệu và triệu chứng khác bao gồm đau ngực hoặc đau núm vú (rất hiếm), tiết dịch núm vú, núm vú thụt vào trong và có những thay đổi về da vùng vú (ví dụ như da cam, núm vú bị trầy xước, bong tróc, viêm, da bị dính, loét, áp xe).
Các dấu hiệu và triệu chứng khác bao gồm đau ngực hoặc đau núm vú (rất hiếm), tiết dịch núm vú, núm vú thụt vào trong và có những thay đổi về da vùng vú (ví dụ như da cam, núm vú bị trầy xước, bong tróc, viêm, da bị dính, loét, áp xe).
Tiền sử
Trong quá trình khai thác tiền sử, hỏi về các triệu chứng như đau ngực hoặc bướu mới xuất hiện ở vú. Đánh giá các yếu tố nguy cơ ung thư vú như tiền sử ung thư vú, xạ trị thành ngực và tiền sử gia đình rõ.
Khám thực thể
Khám vú toàn diện bao gồm nhìn và sờ vú. Nên thực hiện ở tư thế thẳng đứng và nằm ngửa để xác định những thay đổi nhỏ về hình dạng hoặc đường viền ở vú. Xác định sự hiện diện của bướu hoặc khối sờ thấy được và các đặc điểm (ví dụ như vị trí, kích thước, kết cấu, khả năng di động, có dày lên không đối xứng hoặc có nốt sần, núm vú thụt vào trong, tiết dịch núm vú và những thay đổi về da). Đánh giá các hạch (LN) nách, hạch trên đòn và hạch vú trong và các cơ quan khác để tìm bệnh di căn.
Ở những bệnh nhân có tiết dịch núm vú mà không sờ thấy bướu, đánh giá tính chất của dịch tiết để tìm các nguyên nhân khác.
Ở những bệnh nhân không có triệu chứng với khám lâm sàng âm tính, tiến hành đánh giá nguy cơ, sau đó tầm soát và theo dõi phù hợp theo khuyến cáo.
Ở những bệnh nhân có tiết dịch núm vú mà không sờ thấy bướu, đánh giá tính chất của dịch tiết để tìm các nguyên nhân khác.
Ở những bệnh nhân không có triệu chứng với khám lâm sàng âm tính, tiến hành đánh giá nguy cơ, sau đó tầm soát và theo dõi phù hợp theo khuyến cáo.