Hội chứng mạch vành mạn Tổng quan về bệnh

Cập nhật: 13 November 2025

Nội dung của trang này:

Nội dung của trang này:

Giới thiệu

Hội chứng mạch vành mạn còn được gọi là bệnh động mạch vành ổn định (CAD), bệnh tim thiếu máu cục bộ ổn định (SIHD), đau thắt ngực ổn định mạn tính hoặc đau thắt ngực ổn định. Đây là một hội chứng lâm sàng do thay đổi cấu trúc và/hoặc chức năng liên quan đến các bệnh mạn tính của động mạch vành và/hoặc vi tuần hoàn vành dẫn đến mất cân bằng thoáng qua, có thể hồi phục giữa nhu cầu của cơ tim và cung cấp máu, cuối cùng gây giảm tưới máu (thiếu máu cục bộ). Tình trạng này thường, nhưng không phải luôn luôn, khởi phát bởi gắng sức, xúc cảm hoặc các stress khác và biểu hiện bằng cơn đau thắt ngực hoặc cảm giác bó chặt ở ngực, cổ, hàm, vai, lưng hoặc tay, khó thở hoặc có thể không triệu chứng. Tình trạng này ổn định trong thời gian dài nhưng thường tiến triển và có thể mất ổn định bất kỳ lúc nào với sự phát triển của hội chứng mạch vành cấp (ACS). Cơn đau thắt ngực được coi là ổn định khi không phải là triệu chứng mới và khi không giảm về tần suất, thời gian hoặc mức độ nặng của các cơn; khó chịu ở ngực có tính dự đoán và lặp lại ở một mức độ gắng sức nhất định và giảm khi nghỉ ngơi hoặc dùng nitroglycerin.

Dịch tễ học

Hội chứng mạch vành mạn là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong trên toàn thế giới. Tỷ lệ hiện mắc toàn cầu của bệnh tim thiếu máu cục bộ (IHD) năm 2020 là 138/100.000 ở nam và 90/100.000 ở nữ. Tỷ lệ hiện mắc năm 2020 dao động từ 1.556 đến <3.345/100.000 ở Đông Nam Á. Hơn nữa, tỷ lệ hiện mắc hội chứng mạch vành mạn hoặc đau thắt ngực ổn định tăng theo tuổi.

Sinh bệnh học

Hội chứng mạch vành mạn là do cung cấp máu không đầy đủ cho cơ tim, là kết quả của việc tắc nghẽn các động mạch vành thượng tâm mạc, thường do xơ vữa. Cơ chế sinh bệnh bao gồm mất cân bằng giữa cung cấp oxy cho cơ tim (tức giảm lưu lượng máu và cung cấp oxy đến cơ tim) và nhu cầu (tức tăng gánh nặng hoạt động và nhu cầu oxy của cơ tim). Các cơ chế khác bao gồm huyết khối thành mạch, rối loạn chức năng vi mạch, co mạch tại vị trí hẹp do yếu tố động, và các quá trình không thuộc động mạch vành hoặc không thuộc mạch máu (ví dụ rối loạn chuyển hóa năng lượng cơ tim, bất thường lưu chuyển máu, hoặc chèn ép vi tuần hoàn ngoài mạch).

Nguyên nhân

Hội chứng mạch vành mạn có thể quy cho tình trạng thiếu máu cục bộ cơ tim, trong đó bệnh động mạch vành xơ vữa là nguyên nhân thường gặp nhất. Bệnh động mạch vành tắc nghẽn có hẹp ≥50% trong khi bệnh động mạch vành không tắc nghẽn có hẹp <50%. Bệnh nhân (chủ yếu là nữ) cũng có thể biểu hiện các triệu chứng thiếu máu cục bộ mà không có hẹp hoặc tắc nghẽn động mạch vành thượng tâm mạc (tức đau thắt ngực vi mạch).

Các nguyên nhân tim mạch không do xơ vữa của bệnh tim thiếu máu cục bộ mạn tính bao gồm bất thường động mạch vành (ví dụ bất thường bẩm sinh của động mạch vành, bóc tách động mạch vành, viêm động mạch vành liên quan đến các bệnh viêm mạch hệ thống, co thắt vành, và bệnh động mạch vành do tia xạ) và cầu cơ mạch vành (myocardial bridging).

Yếu tố nguy cơ

Đánh giá các yếu tố nguy cơ của bệnh tim thiếu máu cục bộ

Chronic Coronary Syndromes_Disease BackgroundChronic Coronary Syndromes_Disease Background


Cần đánh giá sự hiện diện của các yếu tố nguy cơ của bệnh tim thiếu máu cục bộ. Ví dụ hút thuốc, rối loạn lipid máu (ví dụ tăng cholesterol máu có tính gia đình), đái tháo đường (DM), tăng huyết áp, béo phì, hội chứng chuyển hóa, bệnh thận mạn (CKD), ít hoạt động thể lực, tuổi cao, và tiền sử gia đình mắc bệnh tim mạch (CVD) sớm. Tiền sử bệnh mạch não, bệnh động mạch ngoại biên (PAD), nhồi máu cơ tim (MI) hoặc tái tưới máu mạch vành cũng làm tăng khả năng mắc bệnh tim thiếu máu cục bộ. Bệnh nhân có cơn đau thắt ngực thường xuyên hơn hoặc nặng hơn dễ xảy ra biến cố chính hơn so với người không có đau thắt ngực.

Phân loại

Phân loại mức độ nặng của đau thắt ngực

Phân loại mức độ nặng của cơn đau thắt ngực giúp xác định mức suy giảm chức năng, đáp ứng điều trị và tiên lượng của bệnh nhân. Ví dụ có Phân loại của Hội Tim mạch Canada, Chỉ số Trạng thái Hoạt động Duke, và Bảng câu hỏi Đau thắt ngực Seattle. Các mức I và II của Phân loại Hội Tim mạch Canada xếp bệnh nhân là nhẹ hoặc ổn định trong khi mức III và IV xếp là nặng hoặc không ổn định.

PHÂN LOẠI ĐAU THẮT NGỰC CỦA HỘI TIM MẠCH CANADA

Phân lớp

Mức độ triệu chứng

Nhóm I

  • Hoạt động thông thường không gây đau thắt ngực
  • Đau thắt ngực chỉ do gắng sức mạnh, nhanh hoặc kéo dài

Nhóm II

  • Gắng sức mức độ vừa gây đau thắt ngực
  • Hạn chế nhẹ hoạt động thông thường khi thực hiện nhanh, sau bữa ăn, đi lên dốc, dưới căng thẳng cảm xúc, trong thời tiết lạnh hoặc có gió hoặc trong vài giờ đầu sau khi thức dậy
  • Đau thắt ngực khi đi bộ >2 dãy nhà trên địa hình bằng phẳng và leo >1 tầng cầu thang với tốc độ bình thường trong điều kiện bình thường

Nhóm III

  • Hạn chế đáng kể hoạt động thể lực thông thường
  • Đau thắt ngực khi đi bộ 1 hoặc 2 dãy nhà trên địa hình bằng phẳng hoặc leo 1 tầng cầu thang với tốc độ bình thường trong điều kiện bình thường

Nhóm IV

  • Không thể thực hiện bất kỳ hoạt động thể lực nào mà không khó chịu hoặc đau thắt ngực có thể xuất hiện khi nghỉ

Tài liệu tham khảo: Vrints C, Andreotti F, Koskinas KC, et al. 2024 ESC guidelines for the management of chronic coronary syndromes. Eur Heart J. 2024 Aug 30:ehae177

 
Các phân nhóm của hội chứng mạch vành mạn

Dựa trên các kiểu biểu hiện lâm sàng khác nhau của người bệnh, được phân loại theo khuyến cáo năm 2023 của Hiệp hội Tim mạch Hoa Kỳ (AHA)/Trường môn Tim mạch Hoa Kỳ (ACC)/Trường môn Dược lâm sàng Hoa Kỳ (ACCP)/Hiệp hội Tim mạch Phòng ngừa Hoa Kỳ (ASPC)/Hiệp hội Lipid Quốc gia (NLA)/Hiệp hội Điều dưỡng Tim mạch Phòng ngừa (PCNA):
  • Người bệnh xuất viện sau khi nhập viện vì một biến cố hội chứng mạch vành cấp (ACS) hoặc sau thủ thuật tái thông mạch vành và sau khi đã ổn định tất cả các biến cố tim mạch
  • Người bệnh có rối loạn chức năng tâm thu thất trái và có hoặc nghi ngờ bệnh động mạch vành, hoặc xác định có bệnh cơ tim được cho là có nguồn gốc từ thiếu máu cục bộ
  • Người bệnh có triệu chứng đau thắt ngực ổn định (hoặc tương đương thiếu máu cục bộ như khó thở hoặc đau cánh tay khi gắng sức) được điều trị nội khoa, có hoặc không có kết quả dương tính trên chẩn đoán hình ảnh
  • Người bệnh có triệu chứng đau thắt ngực và có bằng chứng co thắt mạch vành hoặc đau thắt ngực vi mạch
  • Người bệnh được chẩn đoán hội chứng vành mạn chỉ dựa trên kết quả sàng lọc (ví dụ nghiệm pháp gắng sức, chụp cắt lớp vi tính mạch vành [CCTA]) và được bác sĩ điều trị như vậy
Dựa trên các biểu hiện khác nhau của người bệnh nghi ngờ hoặc đã xác định mắc hội chứng vành mạn theo Hội Tim mạch Châu Âu (ESC) 2024:
  • Nhóm 1: Người bệnh có triệu chứng với đau thắt ngực hoặc thiếu máu cục bộ do gắng sức, tái tạo được, kèm bệnh động mạch vành (CAD) thượng tâm mạc tắc nghẽn
  • Nhóm 2: Người bệnh có đau thắt ngực hoặc thiếu máu cục bộ do bất thường vận mạch thượng tâm mạc hoặc thay đổi chức năng/cấu trúc vi mạch mà không có CAD thượng tâm mạc tắc nghẽn (đau thắt ngực không do tắc nghẽn mạch vành [ANOCA]/thiếu máu cục bộ với động mạch vành không tắc nghẽn [INOCA])
  • Nhóm 3: Người bệnh không cấp tính sau ACS hoặc sau tái thông mạch
  • Nhóm 4: Người bệnh không cấp tính có rối loạn chức năng thất trái hoặc suy tim do nguồn gốc thiếu máu cục bộ hoặc bệnh tim chuyển hóa
  • Nhóm 5: Người bệnh không triệu chứng, trong đó CAD thượng tâm mạc được phát hiện khi sàng lọc, qua xét nghiệm hình ảnh nhằm tinh chỉnh đánh giá nguy cơ tim mạch hoặc là phát hiện tình cờ do một chỉ định khác
Sự hiện diện của các kịch bản này có thể làm tăng hoặc giảm nguy cơ xảy ra biến cố tim mạch trong tương lai của người bệnh. Các yếu tố nguy cơ tim mạch được kiểm soát chưa đầy đủ, thay đổi lối sống và/hoặc điều trị nội khoa kém hiệu quả, hoặc tái thông mạch thất bại có thể làm tăng nguy cơ biến cố tim mạch. Phòng ngừa thứ phát thích hợp và tái thông mạch thành công đã được chứng minh là làm giảm nguy cơ các biến cố tim mạch chính.