Content:
Giám sát
Nội dung của trang này:
Giám sát
Nội dung của trang này:
Giám sát
Giám sát
Bệnh nhân bệnh tim thiếu máu cục bộ ổn định nên được tái khám định kỳ mỗi 4-6 tháng trong năm đầu điều trị, mỗi 6-12 tháng sau năm đầu tiên nếu bệnh nhân ổn định và sớm hơn nếu có thay đổi triệu chứng hoặc khả năng gắng sức. Đánh giá bao gồm: Đánh giá triệu chứng và chức năng lâm sàng; theo dõi các biến chứng như rối loạn nhịp và suy tim; theo dõi và điều chỉnh các yếu tố nguy cơ tim mạch; đánh giá mức độ đầy đủ và tuân thủ các thay đổi lối sống và điều trị bằng thuốc; và sự tuân thủ thay đổi lối sống và hiệu quả của thuốc hạ lipid máu nên được đánh giá bằng cách đo lipid máu lúc đói sau 4-12 tuần kể từ khi khởi trị statin hoặc điều chỉnh liều và sau đó mỗi 3-12 tháng tùy theo đáp ứng hoặc mức độ tuân thủ điều trị.
Nên sàng lọc định kỳ các bệnh đi kèm mới xuất hiện hoặc nặng thêm, vốn phổ biến ở bệnh nhân bệnh tim thiếu máu cục bộ ổn định, như đái tháo đường, trầm cảm và bệnh thận mạn. Củng cố các liệu pháp giúp kiểm soát yếu tố nguy cơ như rối loạn lipid máu, tăng huyết áp và đái tháo đường. Bệnh nhân có nguy cơ (ví dụ: hội chứng mạch vành cấp gần đây hoặc đã tái thông mạch, suy tim) nên tham gia các chương trình được bác sĩ giám sát (phục hồi chức năng tim) và các chương trình tập luyện tại nhà theo chỉ định của bác sĩ. Có thể thực hiện điện tâm đồ lúc nghỉ với khoảng cách 1 năm hoặc dài hơn giữa các lần đo ở bệnh nhân có triệu chứng ổn định. Đề xuất làm thêm một xét nghiệm điện tâm đồ nếu bệnh nhân xuất hiện rối loạn nhịp, xuất hiện triệu chứng đau thắt ngực hoặc khi liệu pháp đã được điều chỉnh. Khuyến cáo làm điện tâm đồ gắng sức nếu có thay đổi về tần suất xuất hiện triệu chứng hoặc xuất hiện triệu chứng mới. Có thể lặp lại điện tâm đồ gắng sức sau 2 năm nếu ổn định. Có thể làm nghiệm pháp gắng sức để tham chiếu vào 1-3 tháng sau khi tái thông mạch và/hoặc định kỳ để đánh giá lại thiếu máu cục bộ. Đánh giá lại tiên lượng bằng nghiệm pháp gắng sức mỗi 3-5 năm cho bệnh nhân có nguy cơ thấp/không triệu chứng. Khuyến cáo đánh giá phân suất tống máu thất trái và vận động thành tim từng vùng bằng siêu âm tim hoặc xạ hình hạt nhân ở bệnh nhân có suy tim mới khởi phát hoặc nặng thêm hoặc có bằng chứng nhồi máu cơ tim xen kẽ theo tiền sử hoặc điện tâm đồ. Ở bệnh nhân đau thắt ngực gây tàn phế không đáp ứng với điều trị nội khoa tối ưu và tái thông mạch (tức là đau thắt ngực kháng trị), cân nhắc sử dụng bơm đối xung ngoại biên tăng cường (EECP), thiết bị gây hẹp xoang vành hoặc kích thích tủy sống để cải thiện triệu chứng. Ở bệnh nhân đau thắt ngực kháng trị dù đã dùng thuốc nhưng không thể tái thông mạch, giảm hồi lưu tĩnh mạch vành qua xoang vành có thể giúp phân bố lại dòng máu đến các vùng cơ tim thiếu máu. Không khuyến cáo tái thông mạch xuyên cơ tim ở bệnh nhân đau thắt ngực kháng trị.
Nên sàng lọc định kỳ các bệnh đi kèm mới xuất hiện hoặc nặng thêm, vốn phổ biến ở bệnh nhân bệnh tim thiếu máu cục bộ ổn định, như đái tháo đường, trầm cảm và bệnh thận mạn. Củng cố các liệu pháp giúp kiểm soát yếu tố nguy cơ như rối loạn lipid máu, tăng huyết áp và đái tháo đường. Bệnh nhân có nguy cơ (ví dụ: hội chứng mạch vành cấp gần đây hoặc đã tái thông mạch, suy tim) nên tham gia các chương trình được bác sĩ giám sát (phục hồi chức năng tim) và các chương trình tập luyện tại nhà theo chỉ định của bác sĩ. Có thể thực hiện điện tâm đồ lúc nghỉ với khoảng cách 1 năm hoặc dài hơn giữa các lần đo ở bệnh nhân có triệu chứng ổn định. Đề xuất làm thêm một xét nghiệm điện tâm đồ nếu bệnh nhân xuất hiện rối loạn nhịp, xuất hiện triệu chứng đau thắt ngực hoặc khi liệu pháp đã được điều chỉnh. Khuyến cáo làm điện tâm đồ gắng sức nếu có thay đổi về tần suất xuất hiện triệu chứng hoặc xuất hiện triệu chứng mới. Có thể lặp lại điện tâm đồ gắng sức sau 2 năm nếu ổn định. Có thể làm nghiệm pháp gắng sức để tham chiếu vào 1-3 tháng sau khi tái thông mạch và/hoặc định kỳ để đánh giá lại thiếu máu cục bộ. Đánh giá lại tiên lượng bằng nghiệm pháp gắng sức mỗi 3-5 năm cho bệnh nhân có nguy cơ thấp/không triệu chứng. Khuyến cáo đánh giá phân suất tống máu thất trái và vận động thành tim từng vùng bằng siêu âm tim hoặc xạ hình hạt nhân ở bệnh nhân có suy tim mới khởi phát hoặc nặng thêm hoặc có bằng chứng nhồi máu cơ tim xen kẽ theo tiền sử hoặc điện tâm đồ. Ở bệnh nhân đau thắt ngực gây tàn phế không đáp ứng với điều trị nội khoa tối ưu và tái thông mạch (tức là đau thắt ngực kháng trị), cân nhắc sử dụng bơm đối xung ngoại biên tăng cường (EECP), thiết bị gây hẹp xoang vành hoặc kích thích tủy sống để cải thiện triệu chứng. Ở bệnh nhân đau thắt ngực kháng trị dù đã dùng thuốc nhưng không thể tái thông mạch, giảm hồi lưu tĩnh mạch vành qua xoang vành có thể giúp phân bố lại dòng máu đến các vùng cơ tim thiếu máu. Không khuyến cáo tái thông mạch xuyên cơ tim ở bệnh nhân đau thắt ngực kháng trị.
