Content:
Xét nghiệm và hỗ trợ chẩn đoán
Nội dung của trang này:
Xét nghiệm và hỗ trợ chẩn đoán
Nội dung của trang này:
Xét nghiệm và hỗ trợ chẩn đoán
Xét nghiệm và hỗ trợ chẩn đoán
Thủy đậu
Xét nghiệm cận lâm sàng không cần thiết cho hầu hết trường hợp thủy đậu nhưng có thể cần trong các đợt tái phát bệnh, biểu hiện lâm sàng không điển hình hoặc kháng thuốc. Mẫu da lấy bằng cách mở vảy của một mụn nước mới và lau đáy tổn thương bằng tăm bông polyester được dùng để xác nhận thủy đậu, trong khi mẫu máu dùng để kiểm tra miễn dịch. Các xét nghiệm xác nhận phát hiện DNA hoặc protein của virus thông qua phản ứng chuỗi polymerase (PCR) và kháng thể huỳnh quang trực tiếp (DFA) hoặc phân lập virus qua nuôi cấy.
Nuôi cấy virus
Các kỹ thuật mới nuôi cấy virus cho kết quả trong 2-3 ngày. Chúng không có độ nhạy cao do VZV rất dễ mất hoạt tính và chủ yếu thực hiện cho mục đích nghiên cứu khoa học/lâm sàng.
Xét nghiệm Tzanck
Phương pháp này dễ thực hiện nhưng không phân biệt được VZV với virus Herpes Simplex (HSV).
Phản ứng chuỗi polymerase (PCR)
Có thể sử dụng tăm bông lấy mẫu từ đáy mụn nước hoặc gạt lớp vảy từ tổn thương đã đóng vảy để xác định DNA của VZV. PCR được coi là tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán thủy đậu nhờ độ đặc hiệu và độ nhạy cao. Phản ứng PCR cho kết quả nhanh trong vài giờ. Đối với bệnh nhân nghi ngờ có ảnh hưởng đến hệ thần kinh trung ương (CNS), PCR VZV có thể thực hiện trên mẫu dịch não tủy (CSF).
Huyết thanh học
Xét nghiệm huyết thanh học có thể được sử dụng làm xét nghiệm khẳng định dựa trên sự có mặt của globulin miễn dịch lớp M (IgM) hoặc sự gia tăng gấp bốn lần của globulin miễn dịch lớp G (IgG) của VZV trong giai đoạn cấp và hồi phục, nhưng kém tin cậy hơn so với PCR và miễn dịch huỳnh quang do thiếu độ nhạy và độ đặc hiệu. Phản ứng cố định bổ thể yêu cầu ghép cặp huyết thanh và có phản ứng chéo với HSV.
Miễn dịch huỳnh quang trực tiếp và gián tiếp
Kính hiển vi huỳnh quang xác định nhanh sự hiện diện của protein VZV trong các tế bào được cạo từ tổn thương. Phương pháp này có thể là một lựa chọn thay thế cho PCR nhưng kém nhạy hơn và đòi hỏi kỹ năng trong việc lấy và xử lý mẫu.
Bệnh zona
Chẩn đoán lâm sàng là đủ trong trường hợp bệnh zona điển hình, nhưng xét nghiệm chẩn đoán hữu ích để phân biệt bệnh zona với herpes simplex nếu nghi ngờ có tổn thương cơ quan và trong trường hợp biểu hiện không điển hình. Có thể dùng tăm bông lấy mẫu từ tổn thương mới hoặc sinh thiết mô để nuôi cấy virus. Xét nghiệm kháng nguyên huỳnh quang trực tiếp hoặc PCR nên được thực hiện cho các chẩn đoán không chắc chắn và tổn thương không điển hình. Vảy tiết là bệnh phẩm rất tốt cho xét nghiệm PCR. PCR là phương pháp nhạy và đặc hiệu nhất để chẩn đoán nhiễm VZV. Nuôi cấy, huyết thanh học và xét nghiệm miễn dịch huỳnh quang trực tiếp và gián tiếp tương tự như đối với thủy đậu. Có thể cân nhắc xét nghiệm huyết thanh để phát hiện IgM, IgG và globulin miễn dịch lớp A (IgA) đặc hiệu với VZV ở bệnh nhân đau giống bệnh zona và liệt thần kinh mặt liên quan đến bệnh zona.
Xét nghiệm cận lâm sàng không cần thiết cho hầu hết trường hợp thủy đậu nhưng có thể cần trong các đợt tái phát bệnh, biểu hiện lâm sàng không điển hình hoặc kháng thuốc. Mẫu da lấy bằng cách mở vảy của một mụn nước mới và lau đáy tổn thương bằng tăm bông polyester được dùng để xác nhận thủy đậu, trong khi mẫu máu dùng để kiểm tra miễn dịch. Các xét nghiệm xác nhận phát hiện DNA hoặc protein của virus thông qua phản ứng chuỗi polymerase (PCR) và kháng thể huỳnh quang trực tiếp (DFA) hoặc phân lập virus qua nuôi cấy.
Nuôi cấy virus
Các kỹ thuật mới nuôi cấy virus cho kết quả trong 2-3 ngày. Chúng không có độ nhạy cao do VZV rất dễ mất hoạt tính và chủ yếu thực hiện cho mục đích nghiên cứu khoa học/lâm sàng.
Xét nghiệm Tzanck
Phương pháp này dễ thực hiện nhưng không phân biệt được VZV với virus Herpes Simplex (HSV).
Phản ứng chuỗi polymerase (PCR)
Có thể sử dụng tăm bông lấy mẫu từ đáy mụn nước hoặc gạt lớp vảy từ tổn thương đã đóng vảy để xác định DNA của VZV. PCR được coi là tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán thủy đậu nhờ độ đặc hiệu và độ nhạy cao. Phản ứng PCR cho kết quả nhanh trong vài giờ. Đối với bệnh nhân nghi ngờ có ảnh hưởng đến hệ thần kinh trung ương (CNS), PCR VZV có thể thực hiện trên mẫu dịch não tủy (CSF).
Huyết thanh học
Xét nghiệm huyết thanh học có thể được sử dụng làm xét nghiệm khẳng định dựa trên sự có mặt của globulin miễn dịch lớp M (IgM) hoặc sự gia tăng gấp bốn lần của globulin miễn dịch lớp G (IgG) của VZV trong giai đoạn cấp và hồi phục, nhưng kém tin cậy hơn so với PCR và miễn dịch huỳnh quang do thiếu độ nhạy và độ đặc hiệu. Phản ứng cố định bổ thể yêu cầu ghép cặp huyết thanh và có phản ứng chéo với HSV.
Miễn dịch huỳnh quang trực tiếp và gián tiếp
Kính hiển vi huỳnh quang xác định nhanh sự hiện diện của protein VZV trong các tế bào được cạo từ tổn thương. Phương pháp này có thể là một lựa chọn thay thế cho PCR nhưng kém nhạy hơn và đòi hỏi kỹ năng trong việc lấy và xử lý mẫu.
Bệnh zona
Chẩn đoán lâm sàng là đủ trong trường hợp bệnh zona điển hình, nhưng xét nghiệm chẩn đoán hữu ích để phân biệt bệnh zona với herpes simplex nếu nghi ngờ có tổn thương cơ quan và trong trường hợp biểu hiện không điển hình. Có thể dùng tăm bông lấy mẫu từ tổn thương mới hoặc sinh thiết mô để nuôi cấy virus. Xét nghiệm kháng nguyên huỳnh quang trực tiếp hoặc PCR nên được thực hiện cho các chẩn đoán không chắc chắn và tổn thương không điển hình. Vảy tiết là bệnh phẩm rất tốt cho xét nghiệm PCR. PCR là phương pháp nhạy và đặc hiệu nhất để chẩn đoán nhiễm VZV. Nuôi cấy, huyết thanh học và xét nghiệm miễn dịch huỳnh quang trực tiếp và gián tiếp tương tự như đối với thủy đậu. Có thể cân nhắc xét nghiệm huyết thanh để phát hiện IgM, IgG và globulin miễn dịch lớp A (IgA) đặc hiệu với VZV ở bệnh nhân đau giống bệnh zona và liệt thần kinh mặt liên quan đến bệnh zona.
