Content:
Theo dõi
Nội dung của trang này:
Theo dõi
Biến chứng
Nội dung của trang này:
Theo dõi
Biến chứng
Theo dõi
Cần đánh giá thêm, đặc biệt ở bệnh nhân suy giảm miễn dịch. Theo dõi các biến chứng sau nhiễm VZV như nhiễm khuẩn thứ phát, biến chứng trên thần kinh, hô hấp, gan và huyết học. Sự xuất hiện ban theo ở vùng da nhận cảm giác gợi ý bệnh zona, thường xảy ra sau thời gian tiềm ẩn nhiều năm.
Theo dõi các dấu hiệu sau ở bệnh zona:
Theo dõi các dấu hiệu sau ở bệnh zona:
- Các biến chứng: nhiễm khuẩn thứ phát, thần kinh, nhãn khoa, hô hấp, gan và huyết học.
- Đau dai dẳng sau 1-3 tháng khỏi ban gợi ý PHN.
Biến chứng
Thủy đậu
Bệnh nhân suy giảm miễn dịch, trẻ sơ sinh và người lớn (đặc biệt phụ nữ có thai) có nguy cơ biến chứng cao nhất. Biến chứng hay gặp ở trẻ khỏe mạnh là bội nhiễm vi khuẩn do Staphylococcus aureus hoặc Streptococcus pyogenes gây chốc lở, nhọt, viêm mô tế bào, tổn thương da dạng hồng ban hoặc bọng nước. Một biến chứng đe dọa tính mạng là viêm cân mạc hoại tử đã được báo cáo ở trẻ em. Các biến chứng ngoài ở da còn ở cơ quan khác thường là thần kinh, bao gồm thất điều tiểu não và viêm não-màng não cấp tính. Hội chứng Reye, viêm tủy cắt ngang, viêm đa rễ thần kinh và hội chứng Guillain-Barré có thể xảy ra nhưng hiếm. Viêm phổi do thủy đậu là biến chứng hàng đầu ở người lớn, phụ nữ có thai và người suy giảm miễn dịch. Các biến chứng ít gặp hơn bao gồm viêm khớp, viêm cơ tim và viêm cầu thận. Viêm gan thoáng qua xuất hiện ở hầu hết trẻ em và thường không có triệu chứng nhưng cũng có thể dẫn đến suy gan cấp nặng. Giảm tiểu cầu miễn dịch liên quan đến chảy máu vào tổn thương da, chấm xuất huyết dưới da, ban xuất huyết, chảy máu mũi, tiểu ra máu và chảy máu đường tiêu hoá.
Bệnh zona
Đau thần kinh sau zona (PHN)
PHN đặc trưng bởi đau kéo dài tại vùng tổn thương sau khi phát ban hồi phục hoặc ≥3 tháng kể từ khi khởi phát ban. Đây là biến chứng thường gặp và làm suy yếu cơ thể của bệnh zona. Tỷ lệ PHN phụ thuộc tuổi và ảnh hưởng khoảng 50% bệnh nhân >60 tuổi. Bệnh nhân có thể trải qua cơn đau liên tục (được mô tả như rát bỏng, đau nhức hoặc đau nhói), đau gián đoạn (được mô tả như bị đâm hoặc bắn) và đau do kích thích như đau dị cảm (allodynia), định nghĩa là đau do các kích thích thường không gây đau (ví dụ gió thổi hoặc mảnh vải chạm).
Zona mắt (Herpes Zoster Ophthalmicus)
Zona mắt khởi đầu bằng sốt, nhức đầu, giảm thị lực, sụp mi và mệt mỏi toàn thân kèm đau hoặc quá mẫn cảm ở mắt, trán và đỉnh đầu. Một trong những biến chứng thường gặp của bệnh zona liên quan tới nhánh mũi mi trong của dây thần kinh sinh ba và có thể gây loét giác mạc kèm liệt cơ vận nhãn, sụp mi, viêm kết mạc, viêm toàn bộ nhãn cầu, viêm mạch máu võng mạc, tắc động mạch võng mạc, viêm dây thần kinh thị giác, bong võng mạc, tăng nhãn áp và giảm thị lực có thể dẫn đến mù lòa.
Hoại tử võng mạc cấp tính (ARN)
ARN gặp ở bệnh nhân có tiền sử viêm não do herpes và một số người có miễn dịch bình thường. Tiến triển nhanh chóng là đặc trưng ở giai đoạn muộn của hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải (AIDS) với 82% khả năng tổn thương ở hai mắt và 70% trường hợp bong võng mạc. Bệnh nhân than phiền nhìn mờ và đau nhức ở mắt bị tổn thương. Các đặc điểm lâm sàng bao gồm viêm mống mắt-thể mi cấp tính, viêm dịch kính, viêm hoại tử võng mạc, viêm tắc mạch võng mạc kèm mất thị lực nhanh và bong võng mạc. ARN gây tỷ lệ mất thị lực cao.
Hoại tử võng mạc lớp ngoài tiến triển (PORN)
PORN xảy ra ở bệnh nhân AIDS có số lượng CD4 <100 tế bào/μL. Tổn thương nhãn cầu bao gồm viêm tối thiểu ở thủy dịch và dịch kính, không có viêm mạch máu võng mạc và nhiều tổn thương rời rạc ở ngoại vi lớp võng mạc ngoài. Các tổn thương nhanh chóng hợp nhất gây hoại tử toàn bộ độ dày võng mạc và bong võng mạc diễn ra sau đó. PORN gây tỷ lệ mất thị lực cao.
Hội chứng Ramsay Hunt
Còn gọi là zona tai, đây là bệnh đa thần kinh sọ với tổn thương thường gặp ở dây thần kinh sọ V, IX và X. Hội chứng Ramsay Hunt liên quan tới virus Herpes simplex (HSV) loại 2. Bệnh nhân có thể đau tai, giảm thính lực, chóng mặt, liệt dây thần kinh mặt và tổn thương ở vành tai và ống tai ngoài. Là một biến chứng ít gặp liên quan đến hạch gối dây thần kinh mặt, biểu hiện là liệt dây thần kinh mặt ngoại biên, ù tai, chóng mặt, điếc, đau tai, mất vị giác, mụn nước ở vành tai, khẩu cái cứng hoặc lưỡi (zona tai), buồn nôn và nôn.
Bệnh zona lan tỏa
Bệnh zona lan tỏa có thể nghiêm trọng, đe dọa tính mạng. Nó lan đến các cơ quan khác nhưng chủ yếu ảnh hưởng đến phổi. Bệnh nhân suy giảm miễn dịch dễ gặp nguy hiểm hơn. Điều này xảy ra ở những bệnh nhân có số lượng tế bào CD4 <200 tế bào/μL. Ở bệnh nhân đồng nhiễm virus suy giảm miễn dịch ở người (HIV), hệ thần kinh trung ương (CNS) là mục tiêu chính. Triệu chứng bao gồm viêm mạch máu CNS, bệnh não chất trắng đa ổ, viêm não thất, viêm tủy và viêm rễ-tủy, viêm thần kinh thị giác, liệt các dây thần kinh sọ, tổn thương thân não khu trú và viêm màng não vô khuẩn.
Viêm não do zona
Mê sảng có thể xảy ra vài ngày sau khi phát ban mụn nước, trước khi phát ban xuất hiện, hoặc ≥6 tháng sau một đợt bệnh zona. Hầu hết các trường hợp xảy ra ở bệnh nhân suy giảm miễn dịch (ví dụ bệnh nhân nhiễm HIV). Các yếu tố nguy cơ chính bao gồm tổn thương vùng da gắn với dây thần kinh sọ hoặc cổ, ≥2 đợt bệnh zona trước đó, bệnh zona lan tỏa và rối loạn miễn dịch tế bào.
Hội chứng đột quỵ
Đột quỵ xảy ra thứ phát do nhiễm trùng các động mạch não, có thể do sự xâm nhập trực tiếp của VZV vào bề mặt động mạch thông qua lan truyền dọc theo các nhánh nội sọ của dây thần kinh sinh ba. Viêm mạch mô hạt hoặc hội chứng đột quỵ thiếu máu cục bộ liên quan viêm động mạch cảnh trong hoặc các nhánh của nó do sự lan rộng của nhiễm trùng từ hạch thần kinh sinh ba. Biểu hiện là khởi phát dữ dội của cơn đau đầu nặng và tiến triển nhanh đến yếu liệt vận động bên đối diện.
Các biến chứng khác
Bội nhiễm da bao gồm chốc lở, viêm mô tế bào, viêm cân mạc hoại tử và hoại thư do herpes. Liệt từng đoạn thoáng qua dẫn đến thoát vị thành bụng và rối loạn chức năng bàng quang. Biến chứng thần kinh bao gồm viêm não-màng não, viêm tủy và liệt do zona tùy thuộc vào vùng da gắn với dây thần kinh bị ảnh hưởng (ví dụ liệt cơ hoành, thay đổi tâm thần).
Bệnh nhân suy giảm miễn dịch, trẻ sơ sinh và người lớn (đặc biệt phụ nữ có thai) có nguy cơ biến chứng cao nhất. Biến chứng hay gặp ở trẻ khỏe mạnh là bội nhiễm vi khuẩn do Staphylococcus aureus hoặc Streptococcus pyogenes gây chốc lở, nhọt, viêm mô tế bào, tổn thương da dạng hồng ban hoặc bọng nước. Một biến chứng đe dọa tính mạng là viêm cân mạc hoại tử đã được báo cáo ở trẻ em. Các biến chứng ngoài ở da còn ở cơ quan khác thường là thần kinh, bao gồm thất điều tiểu não và viêm não-màng não cấp tính. Hội chứng Reye, viêm tủy cắt ngang, viêm đa rễ thần kinh và hội chứng Guillain-Barré có thể xảy ra nhưng hiếm. Viêm phổi do thủy đậu là biến chứng hàng đầu ở người lớn, phụ nữ có thai và người suy giảm miễn dịch. Các biến chứng ít gặp hơn bao gồm viêm khớp, viêm cơ tim và viêm cầu thận. Viêm gan thoáng qua xuất hiện ở hầu hết trẻ em và thường không có triệu chứng nhưng cũng có thể dẫn đến suy gan cấp nặng. Giảm tiểu cầu miễn dịch liên quan đến chảy máu vào tổn thương da, chấm xuất huyết dưới da, ban xuất huyết, chảy máu mũi, tiểu ra máu và chảy máu đường tiêu hoá.
Bệnh zona
Đau thần kinh sau zona (PHN)
PHN đặc trưng bởi đau kéo dài tại vùng tổn thương sau khi phát ban hồi phục hoặc ≥3 tháng kể từ khi khởi phát ban. Đây là biến chứng thường gặp và làm suy yếu cơ thể của bệnh zona. Tỷ lệ PHN phụ thuộc tuổi và ảnh hưởng khoảng 50% bệnh nhân >60 tuổi. Bệnh nhân có thể trải qua cơn đau liên tục (được mô tả như rát bỏng, đau nhức hoặc đau nhói), đau gián đoạn (được mô tả như bị đâm hoặc bắn) và đau do kích thích như đau dị cảm (allodynia), định nghĩa là đau do các kích thích thường không gây đau (ví dụ gió thổi hoặc mảnh vải chạm).
Zona mắt (Herpes Zoster Ophthalmicus)
Zona mắt khởi đầu bằng sốt, nhức đầu, giảm thị lực, sụp mi và mệt mỏi toàn thân kèm đau hoặc quá mẫn cảm ở mắt, trán và đỉnh đầu. Một trong những biến chứng thường gặp của bệnh zona liên quan tới nhánh mũi mi trong của dây thần kinh sinh ba và có thể gây loét giác mạc kèm liệt cơ vận nhãn, sụp mi, viêm kết mạc, viêm toàn bộ nhãn cầu, viêm mạch máu võng mạc, tắc động mạch võng mạc, viêm dây thần kinh thị giác, bong võng mạc, tăng nhãn áp và giảm thị lực có thể dẫn đến mù lòa.
Hoại tử võng mạc cấp tính (ARN)
ARN gặp ở bệnh nhân có tiền sử viêm não do herpes và một số người có miễn dịch bình thường. Tiến triển nhanh chóng là đặc trưng ở giai đoạn muộn của hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải (AIDS) với 82% khả năng tổn thương ở hai mắt và 70% trường hợp bong võng mạc. Bệnh nhân than phiền nhìn mờ và đau nhức ở mắt bị tổn thương. Các đặc điểm lâm sàng bao gồm viêm mống mắt-thể mi cấp tính, viêm dịch kính, viêm hoại tử võng mạc, viêm tắc mạch võng mạc kèm mất thị lực nhanh và bong võng mạc. ARN gây tỷ lệ mất thị lực cao.
Hoại tử võng mạc lớp ngoài tiến triển (PORN)
PORN xảy ra ở bệnh nhân AIDS có số lượng CD4 <100 tế bào/μL. Tổn thương nhãn cầu bao gồm viêm tối thiểu ở thủy dịch và dịch kính, không có viêm mạch máu võng mạc và nhiều tổn thương rời rạc ở ngoại vi lớp võng mạc ngoài. Các tổn thương nhanh chóng hợp nhất gây hoại tử toàn bộ độ dày võng mạc và bong võng mạc diễn ra sau đó. PORN gây tỷ lệ mất thị lực cao.
Hội chứng Ramsay Hunt
Còn gọi là zona tai, đây là bệnh đa thần kinh sọ với tổn thương thường gặp ở dây thần kinh sọ V, IX và X. Hội chứng Ramsay Hunt liên quan tới virus Herpes simplex (HSV) loại 2. Bệnh nhân có thể đau tai, giảm thính lực, chóng mặt, liệt dây thần kinh mặt và tổn thương ở vành tai và ống tai ngoài. Là một biến chứng ít gặp liên quan đến hạch gối dây thần kinh mặt, biểu hiện là liệt dây thần kinh mặt ngoại biên, ù tai, chóng mặt, điếc, đau tai, mất vị giác, mụn nước ở vành tai, khẩu cái cứng hoặc lưỡi (zona tai), buồn nôn và nôn.
Bệnh zona lan tỏa
Bệnh zona lan tỏa có thể nghiêm trọng, đe dọa tính mạng. Nó lan đến các cơ quan khác nhưng chủ yếu ảnh hưởng đến phổi. Bệnh nhân suy giảm miễn dịch dễ gặp nguy hiểm hơn. Điều này xảy ra ở những bệnh nhân có số lượng tế bào CD4 <200 tế bào/μL. Ở bệnh nhân đồng nhiễm virus suy giảm miễn dịch ở người (HIV), hệ thần kinh trung ương (CNS) là mục tiêu chính. Triệu chứng bao gồm viêm mạch máu CNS, bệnh não chất trắng đa ổ, viêm não thất, viêm tủy và viêm rễ-tủy, viêm thần kinh thị giác, liệt các dây thần kinh sọ, tổn thương thân não khu trú và viêm màng não vô khuẩn.
Viêm não do zona
Mê sảng có thể xảy ra vài ngày sau khi phát ban mụn nước, trước khi phát ban xuất hiện, hoặc ≥6 tháng sau một đợt bệnh zona. Hầu hết các trường hợp xảy ra ở bệnh nhân suy giảm miễn dịch (ví dụ bệnh nhân nhiễm HIV). Các yếu tố nguy cơ chính bao gồm tổn thương vùng da gắn với dây thần kinh sọ hoặc cổ, ≥2 đợt bệnh zona trước đó, bệnh zona lan tỏa và rối loạn miễn dịch tế bào.
Hội chứng đột quỵ
Đột quỵ xảy ra thứ phát do nhiễm trùng các động mạch não, có thể do sự xâm nhập trực tiếp của VZV vào bề mặt động mạch thông qua lan truyền dọc theo các nhánh nội sọ của dây thần kinh sinh ba. Viêm mạch mô hạt hoặc hội chứng đột quỵ thiếu máu cục bộ liên quan viêm động mạch cảnh trong hoặc các nhánh của nó do sự lan rộng của nhiễm trùng từ hạch thần kinh sinh ba. Biểu hiện là khởi phát dữ dội của cơn đau đầu nặng và tiến triển nhanh đến yếu liệt vận động bên đối diện.
Các biến chứng khác
Bội nhiễm da bao gồm chốc lở, viêm mô tế bào, viêm cân mạc hoại tử và hoại thư do herpes. Liệt từng đoạn thoáng qua dẫn đến thoát vị thành bụng và rối loạn chức năng bàng quang. Biến chứng thần kinh bao gồm viêm não-màng não, viêm tủy và liệt do zona tùy thuộc vào vùng da gắn với dây thần kinh bị ảnh hưởng (ví dụ liệt cơ hoành, thay đổi tâm thần).
