Content:
Điều trị bằng thuốc
Nội dung của trang này:
Điều trị bằng thuốc
Điều trị không dùng thuốc
Nội dung của trang này:
Điều trị bằng thuốc
Điều trị không dùng thuốc
Điều trị bằng thuốc
Điều trị triệu chứng
Thuốc giảm đau
Ví dụ: paracetamol, thuốc kháng viêm không steroid (NSAID) và opioid (có thể xem xét khi đau nặng)
Thuốc giảm đau có thể được sử dụng để giảm đau trong bệnh zona.
Thuốc trị ngứa
Ví dụ: calamine dạng lotion, tắm nước ấm và chườm mát
Thuốc hạ sốt
Ví dụ: paracetamol
Thuốc hạ sốt giúp giảm triệu chứng sốt. Không nên dùng aspirin cho trẻ em do liên quan đến hội chứng Reye.
Corticosteroid
Lợi ích của corticosteroid bao gồm giảm đau cấp tính và mau lành vết thương. Chúng nên được dùng kết hợp với điều trị kháng virus do đặc tính ức chế miễn dịch. Việc sử dụng đồng thời không làm giảm tần suất đau thần kinh sau zona (PHN).
Thuốc kháng virus điều trị thủy đậu
Thủy đậu ở người lớn khỏe mạnh và ở bệnh nhân suy giảm miễn dịch thường nặng hơn và có thể điều trị bằng thuốc kháng virus, tốt nhất trong vòng 24 giờ sau khi phát ban khởi phát. Thủy đậu không biến chứng được điều trị bằng thuốc kháng virus đường uống trong 5-7 ngày nhưng có thể kéo dài hơn nếu tổn thương đóng vảy chậm. Thời gian điều trị kháng virus đường tĩnh mạch (IV) thông thường ở bệnh nhân suy giảm miễn dịch là 7-10 ngày nhưng có thể kéo dài cho đến khi không còn tổn thương mới xuất hiện. Không khuyến cáo dùng thuốc kháng virus dự phòng sau khi phơi nhiễm với thủy đậu.
Aciclovir (đường uống/đường tĩnh mạch)
Aciclovir là chất tương tự guanosine, một chất ức chế cạnh tranh DNA polymerase của virus. Nó hạn chế sự sao chép của virus và ngăn chặn sự lây lan sang các tế bào khác. Nó rút ngắn thời gian đào thải virus, ngăn ngừa hình thành tổn thương mới nhanh hơn và tăng tốc độ lành tổn thương ở cả bệnh nhân có miễn dịch bình thường và bệnh nhân suy giảm miễn dịch. Sự cải thiện này ở người khỏe mạnh chỉ ở mức độ khiêm tốn nhưng có thể giảm các biến chứng đe dọa tính mạng ở những người có nguy cơ cao. Điều trị thuốc đường uống nên được bắt đầu trong vòng 24 giờ sau khi phát ban. Liều cao aciclovir đường uống có thể đủ cho bệnh nhân suy giảm miễn dịch nhẹ.
Aciclovir được khuyến cáo dùng trong nhiễm VZV ở bệnh nhân suy giảm miễn dịch và phụ nữ mang thai nhiễm HIV bị bệnh zona không biến chứng. Aciclovir có thể được xem xét ở bệnh nhân có bệnh lý da liễu hoặc hô hấp mạn tính, những người có bệnh có thể trở nặng do nhiễm VZV (ví dụ xơ nang), ngoài ra còn có trẻ em >12 tuổi khỏe mạnh hoặc người nhà tiếp xúc thứ phát và bệnh nhân đang điều trị corticosteroid hoặc liệu pháp salicylate kéo dài. Điều trị đường tĩnh mạch (IV) nên được sử dụng ở bệnh nhân suy giảm miễn dịch nặng, những người có nhiễm trùng nặng và phụ nữ mang thai có dấu hiệu và triệu chứng viêm phổi do VZV. Triệu chứng cải thiện trên lâm sàng trong 48-72 giờ. Liệu pháp này có thể giảm nguy cơ tổn thương mắt bên đối bên khi dùng ≥3 tháng cho bệnh nhân hoại tử võng mạc cấp tính (ARN).
Valaciclovir
Valaciclovir là este valine của aciclovir với khả năng hấp thu đường uống tốt hơn, vì nó chuyển thành aciclovir ngay sau khi hấp thu. Nó có cơ chế tác dụng và hiệu quả tương tự aciclovir. Nó có thể được dùng với số liều ít hơn so với aciclovir.
Famciclovir
Famciclovir là tiền chất diacetyl của penciclovir, có sinh khả dụng cao hơn penciclovir và được chuyển nhanh thành penciclovir trong đường tiêu hóa, máu và gan. Penciclovir có cơ chế tác dụng và hiệu quả tương tự aciclovir nhưng có thời gian bán thải dài hơn.
Thuốc kháng virus điều trị bệnh zona
Ví dụ: aciclovir, famciclovir, valaciclovir
Mục tiêu chính của điều trị bệnh là giảm đau cấp tính và PHN. Điều trị bệnh zona nên tăng tốc quá trình lành tổn thương, hạn chế mức độ và thời gian đau cấp tính và mạn tính, và giảm biến chứng. Điều trị kháng virus đường uống được khuyến cáo ở bệnh nhân có miễn dịch bình thường với phát ban phân bố ở phần da nhận cảm giác vùng mắt hoặc các vùng ngoài thân mình, bệnh nhân ≥50 tuổi và bệnh nhân bị đau hoặc phát ban vừa đến nặng. Liệu pháp này có thể được chấp nhận ở bệnh nhân chỉ suy giảm miễn dịch mức độ nhẹ đến vừa.
Khi dùng trong vòng 72 giờ sau khi có triệu chứng, thuốc kháng virus đường uống đã được chứng minh làm giảm mức độ và thời gian có triệu chứng. Hầu hết sự sao chép của virus đã ngừng sau 72 giờ từ khi phát ban nhưng thời gian này có thể kéo dài đáng kể ở bệnh nhân suy giảm miễn dịch. Sau 72 giờ, nên cân nhắc dùng thuốc kháng virus nếu tổn thương mụn nước mới tiếp tục xuất hiện hoặc có biến chứng. Liệu trình điều trị thông thường là 7 ngày.
Lựa chọn thuốc phụ thuộc vào tính sẵn có, chi phí, liệu trình dùng thuốc và lựa chọn của bệnh nhân. Famciclovir hoặc valaciclovir được ưa chuộng hơn aciclovir do thuận tiện trong liều dùng và hoạt tính kháng virus cao hơn. Một số nghiên cứu cho thấy aciclovir liều cao đường uống giúp đẩy nhanh quá trình hồi phục các tổn thương cấp tính và có thể giảm nguy cơ đau kéo dài. Aciclovir đường tĩnh mạch (IV) thường được khuyến cáo ở bệnh nhân suy giảm miễn dịch hoặc nghi ngờ tổn thương nội tạng. Nên duy trì đến khi tổn thương da lan rộng có cải thiện lâm sàng. Aciclovir IV có thể chuyển sang đường uống khi không còn tổn thương mới nào ở da được ghi nhận và nếu dấu hiệu và triệu chứng được cải thiện. Foscarnet IV có thể là lựa chọn thay thế cho VZV kháng aciclovir.
Điều trị thay thế cho bệnh zona
Brivudin (brivudin)
Brivudin là chất tương tự nucleoside thymidine, ức chế cạnh tranh quá trình sao chép DNA của virus bằng cách ức chế DNA polymerase. Đây là một lựa chọn điều trị cho bệnh nhân bị bệnh zona có miễn dịch bình thường. Một số nghiên cứu cho thấy những bệnh nhân dùng brivudin sẽ rút ngắn thời gian từ khi hình thành tổn thương mới đến khi đóng vảy hoàn toàn với cảm giác ít đau hơn.
Thuốc giảm đau
Ví dụ: paracetamol, thuốc kháng viêm không steroid (NSAID) và opioid (có thể xem xét khi đau nặng)
Thuốc giảm đau có thể được sử dụng để giảm đau trong bệnh zona.
Thuốc trị ngứa
Ví dụ: calamine dạng lotion, tắm nước ấm và chườm mát
Thuốc hạ sốt
Ví dụ: paracetamol
Thuốc hạ sốt giúp giảm triệu chứng sốt. Không nên dùng aspirin cho trẻ em do liên quan đến hội chứng Reye.
Corticosteroid
Lợi ích của corticosteroid bao gồm giảm đau cấp tính và mau lành vết thương. Chúng nên được dùng kết hợp với điều trị kháng virus do đặc tính ức chế miễn dịch. Việc sử dụng đồng thời không làm giảm tần suất đau thần kinh sau zona (PHN).
Thuốc kháng virus điều trị thủy đậu
Thủy đậu ở người lớn khỏe mạnh và ở bệnh nhân suy giảm miễn dịch thường nặng hơn và có thể điều trị bằng thuốc kháng virus, tốt nhất trong vòng 24 giờ sau khi phát ban khởi phát. Thủy đậu không biến chứng được điều trị bằng thuốc kháng virus đường uống trong 5-7 ngày nhưng có thể kéo dài hơn nếu tổn thương đóng vảy chậm. Thời gian điều trị kháng virus đường tĩnh mạch (IV) thông thường ở bệnh nhân suy giảm miễn dịch là 7-10 ngày nhưng có thể kéo dài cho đến khi không còn tổn thương mới xuất hiện. Không khuyến cáo dùng thuốc kháng virus dự phòng sau khi phơi nhiễm với thủy đậu.
Aciclovir (đường uống/đường tĩnh mạch)
Aciclovir là chất tương tự guanosine, một chất ức chế cạnh tranh DNA polymerase của virus. Nó hạn chế sự sao chép của virus và ngăn chặn sự lây lan sang các tế bào khác. Nó rút ngắn thời gian đào thải virus, ngăn ngừa hình thành tổn thương mới nhanh hơn và tăng tốc độ lành tổn thương ở cả bệnh nhân có miễn dịch bình thường và bệnh nhân suy giảm miễn dịch. Sự cải thiện này ở người khỏe mạnh chỉ ở mức độ khiêm tốn nhưng có thể giảm các biến chứng đe dọa tính mạng ở những người có nguy cơ cao. Điều trị thuốc đường uống nên được bắt đầu trong vòng 24 giờ sau khi phát ban. Liều cao aciclovir đường uống có thể đủ cho bệnh nhân suy giảm miễn dịch nhẹ.
Aciclovir được khuyến cáo dùng trong nhiễm VZV ở bệnh nhân suy giảm miễn dịch và phụ nữ mang thai nhiễm HIV bị bệnh zona không biến chứng. Aciclovir có thể được xem xét ở bệnh nhân có bệnh lý da liễu hoặc hô hấp mạn tính, những người có bệnh có thể trở nặng do nhiễm VZV (ví dụ xơ nang), ngoài ra còn có trẻ em >12 tuổi khỏe mạnh hoặc người nhà tiếp xúc thứ phát và bệnh nhân đang điều trị corticosteroid hoặc liệu pháp salicylate kéo dài. Điều trị đường tĩnh mạch (IV) nên được sử dụng ở bệnh nhân suy giảm miễn dịch nặng, những người có nhiễm trùng nặng và phụ nữ mang thai có dấu hiệu và triệu chứng viêm phổi do VZV. Triệu chứng cải thiện trên lâm sàng trong 48-72 giờ. Liệu pháp này có thể giảm nguy cơ tổn thương mắt bên đối bên khi dùng ≥3 tháng cho bệnh nhân hoại tử võng mạc cấp tính (ARN).
Valaciclovir
Valaciclovir là este valine của aciclovir với khả năng hấp thu đường uống tốt hơn, vì nó chuyển thành aciclovir ngay sau khi hấp thu. Nó có cơ chế tác dụng và hiệu quả tương tự aciclovir. Nó có thể được dùng với số liều ít hơn so với aciclovir.
Famciclovir
Famciclovir là tiền chất diacetyl của penciclovir, có sinh khả dụng cao hơn penciclovir và được chuyển nhanh thành penciclovir trong đường tiêu hóa, máu và gan. Penciclovir có cơ chế tác dụng và hiệu quả tương tự aciclovir nhưng có thời gian bán thải dài hơn.
Thuốc kháng virus điều trị bệnh zona
Ví dụ: aciclovir, famciclovir, valaciclovir
Mục tiêu chính của điều trị bệnh là giảm đau cấp tính và PHN. Điều trị bệnh zona nên tăng tốc quá trình lành tổn thương, hạn chế mức độ và thời gian đau cấp tính và mạn tính, và giảm biến chứng. Điều trị kháng virus đường uống được khuyến cáo ở bệnh nhân có miễn dịch bình thường với phát ban phân bố ở phần da nhận cảm giác vùng mắt hoặc các vùng ngoài thân mình, bệnh nhân ≥50 tuổi và bệnh nhân bị đau hoặc phát ban vừa đến nặng. Liệu pháp này có thể được chấp nhận ở bệnh nhân chỉ suy giảm miễn dịch mức độ nhẹ đến vừa.
Khi dùng trong vòng 72 giờ sau khi có triệu chứng, thuốc kháng virus đường uống đã được chứng minh làm giảm mức độ và thời gian có triệu chứng. Hầu hết sự sao chép của virus đã ngừng sau 72 giờ từ khi phát ban nhưng thời gian này có thể kéo dài đáng kể ở bệnh nhân suy giảm miễn dịch. Sau 72 giờ, nên cân nhắc dùng thuốc kháng virus nếu tổn thương mụn nước mới tiếp tục xuất hiện hoặc có biến chứng. Liệu trình điều trị thông thường là 7 ngày.
Lựa chọn thuốc phụ thuộc vào tính sẵn có, chi phí, liệu trình dùng thuốc và lựa chọn của bệnh nhân. Famciclovir hoặc valaciclovir được ưa chuộng hơn aciclovir do thuận tiện trong liều dùng và hoạt tính kháng virus cao hơn. Một số nghiên cứu cho thấy aciclovir liều cao đường uống giúp đẩy nhanh quá trình hồi phục các tổn thương cấp tính và có thể giảm nguy cơ đau kéo dài. Aciclovir đường tĩnh mạch (IV) thường được khuyến cáo ở bệnh nhân suy giảm miễn dịch hoặc nghi ngờ tổn thương nội tạng. Nên duy trì đến khi tổn thương da lan rộng có cải thiện lâm sàng. Aciclovir IV có thể chuyển sang đường uống khi không còn tổn thương mới nào ở da được ghi nhận và nếu dấu hiệu và triệu chứng được cải thiện. Foscarnet IV có thể là lựa chọn thay thế cho VZV kháng aciclovir.
Điều trị thay thế cho bệnh zona
Brivudin (brivudin)
Brivudin là chất tương tự nucleoside thymidine, ức chế cạnh tranh quá trình sao chép DNA của virus bằng cách ức chế DNA polymerase. Đây là một lựa chọn điều trị cho bệnh nhân bị bệnh zona có miễn dịch bình thường. Một số nghiên cứu cho thấy những bệnh nhân dùng brivudin sẽ rút ngắn thời gian từ khi hình thành tổn thương mới đến khi đóng vảy hoàn toàn với cảm giác ít đau hơn.
Điều trị không dùng thuốc
Giáo dục bệnh nhân
Giáo dục bệnh nhân về tính chất lây nhiễm của bệnh và cơ chế lây truyền. Khuyên bệnh nhân về tầm quan trọng của điều trị sớm và theo dõi các dấu hiệu, triệu chứng có thể có của biến chứng. Tránh tự ý dùng aspirin, vì có liên quan đến hội chứng Reye. Đảm bảo cho bệnh nhân biết về diễn tiến của bệnh và cung cấp tư vấn khi cần.
Chăm sóc da và vết thương
Giữ tổn thương trên da khô và sạch để ngăn ngừa bội nhiễm vi khuẩn. Tắm vòi sen ít nhất hai lần mỗi ngày bằng xà phòng và nước. Cắt ngắn móng tay và giữ sạch. Tránh bóc vảy tổn thương, để vảy rơi tự nhiên. Chế độ ăn thức ăn mềm hoặc lỏng có thể được ưu tiên cho bệnh nhân có tổn thương gần miệng. Băng ướt vô trùng có thể giảm khó chịu do tổn thương.
Giáo dục bệnh nhân về tính chất lây nhiễm của bệnh và cơ chế lây truyền. Khuyên bệnh nhân về tầm quan trọng của điều trị sớm và theo dõi các dấu hiệu, triệu chứng có thể có của biến chứng. Tránh tự ý dùng aspirin, vì có liên quan đến hội chứng Reye. Đảm bảo cho bệnh nhân biết về diễn tiến của bệnh và cung cấp tư vấn khi cần.
Chăm sóc da và vết thương
Giữ tổn thương trên da khô và sạch để ngăn ngừa bội nhiễm vi khuẩn. Tắm vòi sen ít nhất hai lần mỗi ngày bằng xà phòng và nước. Cắt ngắn móng tay và giữ sạch. Tránh bóc vảy tổn thương, để vảy rơi tự nhiên. Chế độ ăn thức ăn mềm hoặc lỏng có thể được ưu tiên cho bệnh nhân có tổn thương gần miệng. Băng ướt vô trùng có thể giảm khó chịu do tổn thương.
