Osimertinib kéo dài PFS thêm 3,2 năm trong nghiên cứu LAURA

09 Oct 2024 bởiElvira Manzano
Osimertinib kéo dài PFS thêm 3,2 năm trong nghiên cứu LAURA

Phân tích chính của nghiên cứu pha III LAURA báo cáo tại hội nghị ASCO 2024 cho thấy osimertinib kéo dài thời gian sống không bệnh tiến triển (PFS) gấp bảy lần so với giả dược ở bệnh nhân mắc ung thư phổi không tế bào nhỏ (UTPKTBN) có đột biến EGFR giai đoạn III không thể phẫu thuật sau hóa - xạ trị xác định (definitive chemoradiotherapy). Bước đột phá này đánh dấu osimertinib là chất ức chế EGFR đầu tiên đem lại lợi ích cho bệnh giai đoạn III.

Trung vị PFS là 39,1 tháng với osimertinib so với giả dược là 5,6 tháng (tỷ số nguy cơ [HR], 0,16; khoảng tin cậy [CI] 95%: 0,10–0,24; p=0,001), với khác biệt là 33,5 tháng. Lợi ích này thể hiện nhất quán trên tất cả các phân nhóm. [ASCO 2024, tóm tắt LBA4]

GS.BS. Suresh Ramalingam - Giám đốc điều hành Viện Ung thư Winship tại Đại học Emory ở Atlanta, Hoa Kỳ, trưởng nhóm nghiên cứu, cho biết: “Đây là lần đầu tiên chúng tôi xác định osimertinib là trị liệu tiêu chuẩn (SoC) mới cho bệnh nhân có đột biến EGFR giai đoạn III không thể phẫu thuật sau hóa - xạ trị”. Sau bài báo cáo, ông đã nhận được sự tán thưởng nồng nhiệt từ các đại biểu tham dự ASCO.

‘Thay đổi thực hành lâm sàng’

Bác sĩ David Sigel, chuyên gia ung thư thuộc Viện Nghiên cứu Sarah Cannon, Nashville, Tennessee, Hoa Kỳ, là người tham gia thảo luận nghiên cứu, đã mô tả các kết quả này là “xuất sắc”.

BS Sigel nhận xét sau bài thuyết trình của GS Ramalingam: “Mức giảm 84% nguy cơ tiến triển hoặc tử vong do ung thư có ý nghĩa đối với bệnh nhân. Điều này sẽ làm thay đổi thực hành lâm sàng ngay khi thuốc được mở rộng chỉ định. Bởi vì trong ung thư phổi giai đoạn tiến xa, khoảng 40% bệnh nhân sẽ không thể tiếp tục bước tiếp theo của liệu trình điều trị”.

Osimertinib hiện đã được chấp thuận cho UTPKTBN có đột biến EGFR giai đoạn tiến triển cục bộ hoặc di căn, và như một trị liệu bổ trợ cho bệnh giai đoạn IB-IIIA đã phẫu thuật cắt u, nhưng chưa được phê duyệt cho UTPKTBN đột biến EGFR giai đoạn III không thể phẫu thuật. 

Sự cần thiết của liệu pháp mới

GS. Ramalingam chia sẻ rằng gần một phần ba bệnh nhân mắc UTPKTBN phát hiện bệnh ở giai đoạn III. Trong đó, 60-90% bệnh nhân không thể phẫu thuật do khối u xâm lấn các cơ quan lân cận hoặc di căn lan rộng đến hạch bạch huyết.

Trị liệu tiêu chuẩn hiện có cho bệnh UTPKTBN giai đoạn III không thể phẫu thuật là kết hợp hóa - xạ trị, tiếp theo là điều trị duy trì bằng thuốc ức chế điểm kiểm soát miễn dịch durvalumab trong vòng 1 năm. Tuy nhiên, theo GS. Ramalingam, lợi ích của thuốc ức chế PD-L1 cho bệnh nhân có đột biến EGFR vẫn chưa rõ ràng.

GS. Ramalingam cho biết: “Phân tích hậu định (post hoc) của nghiên cứu then chốt PACIFIC không cho thấy sự khác biệt về PFS hoặc thời gian sống còn toàn bộ (OS) giữa durvalumab và giả dược ở bệnh nhân có đột biến EGFR”. [J Thorac Oncol 2023;18:657-663]

Ông nói thêm: “Chúng tôi nhận thấy rằng bệnh nhân UTPKTBN có đột biến EGFR đáp ứng kém với chất ức chế PD-1 hoặc PD-L1. Khi biểu hiện PD-L1 cao, lợi ích là không có. Đó là lý do tại sao chúng tôi cần một liệu pháp hiệu quả. Vì lẽ đó, chúng tôi rất phấn khởi khi osimertinib, một chất ức chế tyrosine kinase EGFR thế hệ thứ ba đã xuất hiện”.

Nghiên cứu LAURA

Nghiên cứu LAURA thu nhận 216 bệnh nhân UTPKTBN có đột biến EGFR giai đoạn III chưa tiến triển sau hóa - xạ trị. Bệnh nhân được phân ngẫu nhiên theo tỷ lệ 2:1 để điều trị với osimertinib 80 mg (n=143) hoặc giả dược (n=73) một lần/ngày cho đến khi bệnh tiến triển hoặc độc tính không thể chấp nhận được. Tiến triển của bệnh được xác định bằng chụp CT và MRI tại thời điểm ban đầu và định kỳ. PFS là tiêu chí đánh giá chính. OS và tính an toàn thuộc các tiêu chí phụ. [N Engl J Med 2024;doi;10.1056/NEJMoa2402614]

Nhìn chung, bệnh nhân có tuổi trung vị là 63 tuổi, >60% là nữ giới và hơn hai phần ba chưa từng hút thuốc. Những bệnh nhân có bệnh tiến triển trong khi điều trị với giả dược có thể chuyển sang dùng osimertinib. GS. Ramalingam cho biết: “81% bệnh nhân đã thực hiện việc chuyển đổi”.

Đa số bệnh nhân mắc UTPKTBN ở giai đoạn IIIB và được điều trị bằng hóa - xạ trị đồng thời. Hầu hết đều bị ung thư biểu mô tuyến. Phần lớn bệnh nhân (52-59%) bị đột biến mất đoạn exon 19.

Kết cục hoàn toàn ủng hộ osimertinib

PFS sau một năm (đánh giá bởi một trung tâm độc lập được làm mù) là 74% cho Osimertinib, so với giả dược là 22%. Ở tháng thứ 24, các tỷ lệ lần lượt là 65% và 13%. Lợi ích về PFS được duy trì trên các phân nhóm và có ý nghĩa thống kê ở người châu Á là dân số  chiếm hơn 80% ở cả hai nhóm nghiên cứu.

GS. Ramalingam cho biết: “OS vẫn chưa đủ dài tại thời điểm này, nhưng chúng tôi đã thấy một xu hướng ưu thế, mặc dù đã có một tỷ lệ lớn bệnh nhân chuyển sang nhóm điều trị thử nghiệm”. Kết quả OS đầy đủ được dự kiến sẽ công bố trong vòng 2 năm tới.

Trong quá trình theo dõi, 22% bệnh nhân dùng osimertinib xuất hiện thêm tổn thương, so với 68% bệnh nhân dùng giả dược. Không ghi nhận các dấu hiệu mới về tính an toàn.

Các biến cố bất lợi (AE) thường gặp nhất không kể mức độ trong nhóm osimertinib và giả dược lần lượt là viêm phổi do xạ trị (48% so với 38%), tiêu chảy (36% so với 14%), phát ban (24% so với 14%) và COVID-19 (20% so với 8%). AE ≥ độ 3 thường gặp hơn ở nhóm osimertinib so với giả dược (35% so với 12%), tương tự với các AE nghiêm trọng (38% so với 15%).

GS. Ramalingam giải thích: “Phần lớn các AE là hậu quả của hóa - xạ trị. Ngoài ra, thời gian điều trị với osimertinib gấp gần bốn lần so với nhóm giả dược, dẫn đến tỷ lệ AE cao hơn trong nhóm nghiên cứu".

Ông nhấn mạnh: “Kết quả này cho thấy osimertinib sẽ trở thành SoC mới trong UTPKTBN tiến triển cục bộ giai đoạn III có đột biến EGFR không thể phẫu thuật. Xét nghiệm đột biến EGFR là bước quan trọng để đảm bảo điều trị tối ưu cho bệnh nhân giai đoạn III. Không may, tỷ lệ thực hiện xét nghiệm này hiện tại vẫn chưa đạt 100%”.

Nguồn tham khảo: https://www.mims.com/specialty/topic/osimertinib-extends-pfs-by-3-2-years-in-laura