Content:
Đánh giá
Nội dung của trang này:
Đánh giá
Nguyên tắc điều trị
Điều trị bằng thuốc
Điều trị không dùng thuốc
Nội dung của trang này:
Đánh giá
Nguyên tắc điều trị
Điều trị bằng thuốc
Điều trị không dùng thuốc
Đánh giá
Hệ thống phân loại mụn trứng cá
Hiện tại không có hệ thống phân loại hoặc thang điểm chung nào được khuyến cáo cho mụn trứng cá. Tuy nhiên, một số phương pháp tính điểm đang được các hiệp hội khác nhau sử dụng, trong đó phân tầng và đếm số lượng tổn thương là những phương pháp được sử dụng phổ biến nhất. Số lượng tổn thương, loại mụn trứng cá, mức độ nặng của bệnh, vị trí giải phẫu và khuynh hướng hình thành sẹo nên được xem xét khi tính điểm mụn trứng cá cho mục đích điều trị. Một số phương pháp tính điểm đang được sử dụng bao gồm Echelle de Cotation des Lesions d'Acne (ECLA) hoặc Thang điểm Tổn thương Mụn trứng cá (Acne Lesion Score Scale), kỹ thuật Leeds, Hệ thống Phân tầng Mụn trứng cá Toàn diện (Global Acne Grading System), Đánh giá toàn diện của bác sĩ lâm sàng (Investigator Global Assessment - IGA), chỉ số tăng sắc tố sau mụn trứng cá (postacne hyperpigmentation index - PAHPI), Hệ thống đánh giá mức độ nặng toàn diện của mụn trứng cá (Comprehensive Acne Severity System - CASS) và Thang điểm chất lượng cuộc sống của mụn trứng cá (Acne Quality of Life Scale - AQCL) cùng nhiều phương pháp đánh giá khác.
Hệ thống đánh giá mức độ nặng toàn diện của mụn trứng cá (CASS)
CASS có thể được sử dụng để phân loại mức độ nặng của mụn trứng cá trong thực hành lâm sàng, trong đó việc đánh giá được thực hiện ở khoảng cách 2,5 mét đối với mụn trứng cá ở mặt, ngực và lưng.
Đánh giá mức độ nặng phụ thuộc vào các tổn thương hiện diện:
Phân loại này thường bị bệnh nhân đánh giá quá mức nhưng bác sĩ lại đánh giá thấp hơn so với thực tế.
Tài liệu tham khảo: Lehmann HP, Robinson KA, Andrews JS et al. Acne therapy: A methodologic review. J Am Acad Dermatol. 2002;47:231-240; Nast A, Dréno B, Bettoli V, et al. European evidenced-based (S3) guideline for the treatment of acne-update 2016 – short version. J Eur Acad Dermatol Venereol. 2016 Aug;30(8):1261-1268
*Bao gồm nhân mụn và mụn viêm mủ nhẹ
**Phân loại dưới nhóm mụn trứng cá viêm mủ mức độ trung bình và mụn bọc mức độ trung bình
*** Phân loại dưới nhóm mụn trứng cá viêm mủ nặng, mụn bọc nặng và mụn bọc cục bộ
Những lưu ý khác
Các mô hình phân loại dựa trên số lượng tổn thương ở trên được sử dụng nhiều hơn trong các nghiên cứu lâm sàng so với thực hành lâm sàng. Tốt hơn là tập trung vào các tổn thương nặng nhất hiện diện. Điều trị thích hợp các tổn thương nặng nhất thường bao phủ cả các tổn thương nhẹ hơn.
Hiện tại không có hệ thống phân loại hoặc thang điểm chung nào được khuyến cáo cho mụn trứng cá. Tuy nhiên, một số phương pháp tính điểm đang được các hiệp hội khác nhau sử dụng, trong đó phân tầng và đếm số lượng tổn thương là những phương pháp được sử dụng phổ biến nhất. Số lượng tổn thương, loại mụn trứng cá, mức độ nặng của bệnh, vị trí giải phẫu và khuynh hướng hình thành sẹo nên được xem xét khi tính điểm mụn trứng cá cho mục đích điều trị. Một số phương pháp tính điểm đang được sử dụng bao gồm Echelle de Cotation des Lesions d'Acne (ECLA) hoặc Thang điểm Tổn thương Mụn trứng cá (Acne Lesion Score Scale), kỹ thuật Leeds, Hệ thống Phân tầng Mụn trứng cá Toàn diện (Global Acne Grading System), Đánh giá toàn diện của bác sĩ lâm sàng (Investigator Global Assessment - IGA), chỉ số tăng sắc tố sau mụn trứng cá (postacne hyperpigmentation index - PAHPI), Hệ thống đánh giá mức độ nặng toàn diện của mụn trứng cá (Comprehensive Acne Severity System - CASS) và Thang điểm chất lượng cuộc sống của mụn trứng cá (Acne Quality of Life Scale - AQCL) cùng nhiều phương pháp đánh giá khác.
Hệ thống đánh giá mức độ nặng toàn diện của mụn trứng cá (CASS)
CASS có thể được sử dụng để phân loại mức độ nặng của mụn trứng cá trong thực hành lâm sàng, trong đó việc đánh giá được thực hiện ở khoảng cách 2,5 mét đối với mụn trứng cá ở mặt, ngực và lưng.
Đánh giá mức độ nặng phụ thuộc vào các tổn thương hiện diện:
- Độ 0 (sạch): Không có tổn thương hoặc không đáng chú ý, có nhân mụn và mụn viêm rất ít.
- Độ 1 (gần như sạch): Tổn thương hầu như không nhìn thấy từ khoảng cách 2,5 mét, có một vài nhân mụn rải rác, một vài mụn viêm và rất ít mụn mủ.
- Độ 2 (nhẹ): Tổn thương dễ nhận thấy và chiếm dưới một nửa diện tích vùng bị ảnh hưởng; có nhiều nhân mụn, mụn viêm và mụn mủ.
- Độ 3 (trung bình): Tổn thương hơn một nửa diện tích vùng bị ảnh hưởng, với nhiều nhân mụn, sẩn và mụn mủ
- Độ 4 (nặng): Tổn thương rất dễ thấy trên toàn bộ diện tích da và được bao phủ bởi nhân mụn, nhiều mụn viêm và mụn mủ, một vài mụn bọc và nang.
- Độ 5 (rất nặng): Mụn trứng cá viêm nặng bao phủ vùng bị ảnh hưởng, với các mụn bọc và nang
Phân loại này thường bị bệnh nhân đánh giá quá mức nhưng bác sĩ lại đánh giá thấp hơn so với thực tế.
|
Nhẹ* |
Trung bình** |
Nặng*** |
Nhân mụn |
<20 |
20-100 |
>100 |
Mụn viêm/Mụn mủ |
<15 |
15-50 |
>50 |
Mụn bọc/Nang |
0 |
<5 |
>5 |
Tổng số tổn thương |
<30 |
30-125 |
>125 |
Tài liệu tham khảo: Lehmann HP, Robinson KA, Andrews JS et al. Acne therapy: A methodologic review. J Am Acad Dermatol. 2002;47:231-240; Nast A, Dréno B, Bettoli V, et al. European evidenced-based (S3) guideline for the treatment of acne-update 2016 – short version. J Eur Acad Dermatol Venereol. 2016 Aug;30(8):1261-1268
*Bao gồm nhân mụn và mụn viêm mủ nhẹ
**Phân loại dưới nhóm mụn trứng cá viêm mủ mức độ trung bình và mụn bọc mức độ trung bình
*** Phân loại dưới nhóm mụn trứng cá viêm mủ nặng, mụn bọc nặng và mụn bọc cục bộ
Những lưu ý khác
Các mô hình phân loại dựa trên số lượng tổn thương ở trên được sử dụng nhiều hơn trong các nghiên cứu lâm sàng so với thực hành lâm sàng. Tốt hơn là tập trung vào các tổn thương nặng nhất hiện diện. Điều trị thích hợp các tổn thương nặng nhất thường bao phủ cả các tổn thương nhẹ hơn.
Nguyên tắc điều trị
Điều trị mụn trứng cá dựa trên loại tổn thương và mức độ nặng của mụn trứng cá, tiền sử của bệnh nhân (tiền sử điều trị mụn trứng cá trước đó, khả năng sinh sản), với tất cả các yếu tố góp phần gây bệnh đã được xác định và điều trị phù hợp. Chú ý rằng điều trị tại chỗ là hình thức điều trị chính cho mụn trứng cá nhẹ. Đối với mụn trứng cá mức độ trung bình đến nặng, hình thức điều trị chính là điều trị tại chỗ và toàn thân.
Mục tiêu điều trị
Mục tiêu của điều trị là làm sạch các tổn thương do mụn trứng cá, ngăn ngừa các biến chứng về thực thể và tâm lý, duy trì tình trạng thuyên giảm và ngăn ngừa tái phát.
Các giai đoạn của điều trị bằng thuốc
Các giai đoạn của điều trị bằng thuốc bao gồm giai đoạn khởi đầu hoặc dẫn nhập, trong đó làm mụn trứng cá thuyên giảm bằng cách sử dụng các thuốc tác dụng tại chỗ hoặc toàn thân, và giai đoạn duy trì sử dụng các thuốc tác dụng tại chỗ đã được chứng minh là có thể kiểm soát mụn trứng cá, ngăn ngừa tái phát và giảm thiểu biến chứng.
Mục tiêu điều trị
Mục tiêu của điều trị là làm sạch các tổn thương do mụn trứng cá, ngăn ngừa các biến chứng về thực thể và tâm lý, duy trì tình trạng thuyên giảm và ngăn ngừa tái phát.
Các giai đoạn của điều trị bằng thuốc
Các giai đoạn của điều trị bằng thuốc bao gồm giai đoạn khởi đầu hoặc dẫn nhập, trong đó làm mụn trứng cá thuyên giảm bằng cách sử dụng các thuốc tác dụng tại chỗ hoặc toàn thân, và giai đoạn duy trì sử dụng các thuốc tác dụng tại chỗ đã được chứng minh là có thể kiểm soát mụn trứng cá, ngăn ngừa tái phát và giảm thiểu biến chứng.
Điều trị bằng thuốc
Các thuốc tác dụng tại chỗ
Các thuốc tác dụng tại chỗ được sử dụng để đạt trạng thái thuyên giảm và trong giai đoạn điều trị duy trì. Thuốc được bôi trực tiếp lên da, tăng sự tiếp xúc của các nang lông với liệu pháp, hạn chế sự hấp thụ vào cơ thể. Thuốc cũng là phương pháp điều trị chính cho bệnh nhân mắc mụn trứng cá mức độ nhẹ và có lợi cho bệnh nhân mắc mụn trứng cá mức độ trung bình. Lưu ý rằng da người châu Á khác với người da trắng, do đó khi kê đơn các thuốc tác dụng tại chỗ, cần cân nhắc đến điều này; da người châu Á dễ tăng sắc tố sau viêm hơn.
Retinoid
Như: adapalene, tazarotene, tretinoin, trifarotene
Retinoid có tác dụng tiêu nhân mụn và đôi khi có tác dụng kháng viêm. Thuốc làm giảm sự hình thành các tổn thương tiền thân của mụn trứng cá (các nhân mụn nhỏ), hạn chế sự phát triển các tổn thương mới, thúc đẩy quá trình bong tróc biểu mô nang lông, và làm giảm các tổn thương viêm và không viêm. Đây là các thuốc hàng đầu có hiệu quả trong điều trị nhân mụn (không viêm) và mụn trứng cá viêm. Ngoài ra, các thuốc này được sử dụng như liệu pháp đơn trị cho mụn trứng cá không viêm, mức độ nhẹ, có nhân, và kết hợp với kháng sinh đối với các tổn thương viêm và mụn trứng cá mức độ trung bình đến nặng. Retinoid hoạt động như chất đồng vận của các thụ thể acid retinoid (RAR) (như RAR- α, RAR- β, RAR- γ), điều hòa phiên mã quá trình tăng sinh tế bào, biệt hóa của tế bào và hiện tượng viêm.
Adapalene có thể có lợi như liệu pháp đơn trị trong các dạng mụn trứng cá mức độ nhẹ đến trung bình, bằng cách giảm cả các tổn thương viêm và không viêm. Thuốc là một chất điều hòa mạnh quá trình sừng hóa, biệt hóa tế bào và quá trình viêm. Thuốc là retinoid tại chỗ được dung nạp tốt nhất, hiệu quả hơn và ít gây kích ứng hơn tretinoin trong điều trị các tổn thương viêm và không viêm. Các nghiên cứu cho thấy adapalene có tác động chọn lọc thụ thể RAR- β/γ, có tác dụng điều hòa giảm các gen quan trọng trong lớp biểu bì, thúc đẩy quá trình thay đổi tế bào sừng và quá trình biệt hóa thay thế. Các thuốc thế hệ mới hơn với tính chọn lọc RAR cao hơn có thể được ưu tiên dùng trên lâm sàng hơn và nguy cơ tác dụng ngoài mục tiêu điều trị thấp hơn so với các thuốc không chọn lọc hoặc các thuốc tác động lên RAR-α và RAR-β (như tretinoin, isotretinoin).
Tazarotene đã được chứng minh là làm giảm số lượng tổn thương không viêm ở mụn trứng cá mức độ nhẹ đến trung bình. Thuốc giảm bớt sự tích tụ và gắn kết của tế bào sừng chết và quá trình viêm. Thuốc liên quan đến tỷ lệ biến cố đỏ da, nóng rát, ngứa và bong tróc cao hơn tretinoin hoặc adapalene.
Tretinoin có hiệu quả như liệu pháp đơn trị trong điều trị mụn trứng cá viêm mức độ nhẹ đến trung bình và mụn trứng cá không viêm. Thuốc làm bình thường hóa quá trình sừng hóa trong nang lông và ngăn ngừa sự hình thành nhân mụn. Tuy nhiên, bệnh nhân nên được cảnh báo rằng họ có thể bị bùng phát mụn mủ trong vài tuần đầu điều trị; bệnh nhân không nên ngừng điều trị vì đợt bùng phát này là chỉ dấu cho việc mụn trứng cá hiện có đang nhanh chóng biến mất. Tretinoin vi cầu dạng gel là một dạng bào chế để cải thiện khả năng dung nạp của tretinoin tác dụng tại chỗ. Các vi cầu cho phép giải phóng thuốc dần dần, có thể hạn chế việc đưa thuốc đến các lớp dưới của da. Thuốc cũng có thể làm giảm kích ứng và do đó làm tăng sự tuân thủ của bệnh nhân. Tretinoin polyprepolymer-2 (PP-2) là hệ thống phân phối thuốc giúp giữ thuốc trên và trong các lớp trên của da, hạn chế kích ứng. Thuốc có thể dung nạp tốt hơn do giảm kích ứng.
Trifarotene là kem retinoid chọn lọc gamma, thích hợp cho mụn trứng cá ở mặt và thân mình. Thuốc có đặc tính tiêu nhân mụn, kháng viêm và chống sắc tố.
Acne Vulgaris_Management 1
Acid azelaic
Acid azelaic là thuốc tác dụng tại chỗ có tác dụng tiêu nhân mụn nhẹ, kháng khuẩn và kháng viêm. Đây là thuốc tác dụng tại chỗ thay thế cho những bệnh nhân không đáp đầy đủ với các điều trị ban đầu. Thuốc được sử dụng kết hợp với lymecycline/doxycycline đường uống để điều trị mụn trứng cá mức độ từ trung bình đến nặng. Thuốc cũng đã được chứng minh là có hiệu quả như benzoyl peroxide, tretinoin và erythromycin tác dụng tại chỗ ở những bệnh nhân có nhân mụn hoặc mắc mụn trứng cá viêm mức độ nhẹ đến trung bình. Thuốc là lựa chọn hàng thứ hai trong điều trị duy trì; là lựa chọn thay thế cho retinoid. Đây là một lựa chọn điều trị cho phụ nữ mang thai bị mụn trứng cá hoặc những bệnh nhân bị mụn trứng cá và có tăng sắc tố sau viêm (PIH). Thuốc cũng có đặc tính kìm khuẩn và có thể làm giảm >97% sự xâm chiếm của vi khuẩn ở nang lông. Thuốc làm bình thường hóa quá trình sừng hóa cùng với giảm quá trình viêm. Các tác dụng không mong muốn tại chỗ thường cao hơn benzoyl peroxide hoặc tretinoin.
Benzoyl peroxide
Liệu pháp đơn trị bằng benzoyl peroxide được sử dụng để điều trị mụn trứng cá có nhân mụn hoặc mụn trứng cá mức độ nhẹ, và thường dùng kết hợp với kháng sinh tại chỗ của retinoid cho mụn trứng cá mức độ nhẹ đến trung bình. Thuốc được xem là nền tảng trong điều trị mụn trứng cá. Thuốc có hoạt tính diệt khuẩn, làm giảm C. acnes bằng cách sản xuất các gốc tự do có tính oxy hóa trong nang lông tuyến bã nhờn sau một liệu trình điều trị ngắn, dẫn đến cải thiện nhanh các tổn thương viêm và không viêm, và không gây ra tình trạng kháng thuốc của vi khuẩn. Thuốc có tác dụng tiêu nhân mụn, kháng khuẩn và kháng viêm nhẹ.
Kháng sinh
Như: clindamycin, dapsone, erythromycin, minocycline
Kháng sinh tác dụng tại chỗ có lợi đối với mụn trứng cá mức độ nhẹ đến trung bình có tổn thương viêm kết hợp với các thuốc tác dụng tại chỗ khác. Thuốc làm giảm C. acnes trong nang lông tuyến bã nhờn và có đặc tính kháng viêm.
Tuy nhiên, do nguy cơ đề kháng kháng sinh, cần cân nhắc những điều sau:
Acid salicylic
Acid salicylic có thể được sử dụng trong trường hợp mụn trứng cá mức độ nhẹ đến trung bình hoặc dùng như một thuốc bổ trợ khi bệnh nhân không dung nạp với điều trị tiêu chuẩn. Chất này thường được tìm thấy trong các sữa rửa mặt. Thuốc cũng là lựa chọn hàng thứ ba trong điều trị duy trì. Thuốc có tác dụng tiêu nhân mụn và kháng viêm nhẹ. Có nhiều sản phẩm khác nhau chứa acid salicylic. Vui lòng xem MIMS phiên bản mới nhất để biết các dạng bào chế chuyên biệt và thông tin kê toa.
Clascoterone
Clascoterone là thuốc ức chế thụ thể androgen được chấp thuận để điều trị mụn trứng cá ở bệnh nhân ≥12 tuổi. Đây là thuốc tác dụng tại chỗ thay thế cho những bệnh nhân không đáp ứng đầy đủ với điều trị ban đầu.
Các lưu ý khi lựa chọn thuốc tác dụng tại chỗ
Loại da của bệnh nhân
Đối với da dầu, dạng gel hoặc dung dịch được ưu tiên hơn. Ở các nước nóng ẩm, lotion trị mụn có chứa acid salicylic và resorcinol có tác dụng làm khô da. Ngược lại, dạng kem hoặc thuốc mỡ thường được ưu tiên hơn đối với da khô.
Kết hợp thuốc
Nếu sử dụng >1 thuốc tác dụng tại chỗ, tốt nhất là hướng dẫn bệnh nhân bôi 1 thuốc vào buổi sáng và thuốc còn lại vào buổi tối. Kết hợp thuốc tác dụng tại chỗ để điều trị mụn trứng cá cho thấy hiệu quả hơn và được ưu tiên hơn so với chỉ dùng kháng sinh tác dụng tại chỗ. Sự kết hợp thuốc nên bao gồm các thuốc từ các nhóm khác nhau (như benzoyl peroxide kết hợp với kháng sinh tác dụng tại chỗ, benzoyl peroxide kết hợp với retinoid tác dụng tại chỗ, tretinoin kết hợp với kháng sinh tác dụng tại chỗ, acid azelaic kết hợp với lymecycline/doxycycline, kháng sinh tác dụng tại chỗ kết hợp với retinoid tác dụng tại chỗ kết hợp với benzoyl peroxide). Các dạng kết hợp retinoid-benzoyl peroxide bị hạn chế do tính không ổn định của retinoid (trừ adapalene). Tuy nhiên, các kết hợp này là điều trị đầu tay được khuyến cáo ở những bệnh nhân mắc mụn trứng cá viêm, có nhân mụn hoặc cả hai.
Hiện có các sản phẩm kết hợp liều cố định của thuốc từ các nhóm khác nhau. Các sản phẩm kết hợp với liều cố định có thể thuận tiện hơn và làm tăng sự tuân thủ của bệnh nhân. Các dạng kết hợp thuốc tác dụng tại chỗ với liều cố định được khuyến cáo bao gồm benzoyl peroxide và retinoid tác dụng tại chỗ, benzoyl peroxide và kháng sinh tác dụng tại chỗ, và retinoid tác dụng tại chỗ và kháng sinh tác dụng tại chỗ. Adapalene kết hợp với benzoyl peroxide là thuốc kết hợp tác dụng tại chỗ với liều cố định đầu tiên được dùng cho mụn trứng cá viêm mức độ nặng. Thuốc có hiệu quả cao hơn ngay từ tuần đầu tiên điều trị so với liệu pháp đơn trị. Thuốc cũng có thể được sử dụng riêng lẻ hoặc kết hợp với các liệu pháp khác trước khi kê toa isotretinoin đường uống. Adapalene kết hợp với benzoyl peroxide kết hợp với doxycycline là phương pháp điều trị thay thế cho isotretinoin ở những bệnh nhân mắc mụn trứng cá mức độ nặng không dung nạp hoặc không muốn dùng isotretinoin.
Thuốc uống
Thuốc uống là lựa chọn điều trị ưu tiên cho các trường hợp mụn trứng cá không đáp ứng với điều trị tại chỗ, mụn trứng cá có nguy cơ cao để lại sẹo hoặc ở những bệnh nhân có mụn bọc.
Kháng sinh
Kháng sinh không bao giờ được sử dụng như liệu pháp đơn trị cho mụn trứng cá mức độ trung bình đến nặng. Thuốc thường được sử dụng cho mụn trứng cá viêm mức độ trung bình đến nặng, không đáp ứng với các thuốc tác dụng tại chỗ dạng kết hợp hoặc mụn trứng cá có khả năng cao để lại sẹo. Việc lựa chọn kháng sinh dựa trên hồ sơ tác dụng không mong muốn và các mô hình kháng thuốc tại địa phương. Liệu trình điều trị tối đa nên là 3-4 tháng, nhưng nên đánh giá đáp ứng điều trị sau 6-8 tuần. Kháng sinh ức chế sự phát triển của C. acnes, giúp giảm sản xuất các yếu tố gây viêm.
Đề kháng kháng sinh khi sử dụng azithromycin đã được báo cáo. Azithromycin nên được sử dụng thận trọng ở những bệnh nhân có nguy cơ gặp tác dụng không mong muốn nặng như hoại tử biểu bì nhiễm độc, nhưng ít tác dụng không mong muốn hơn so với erythromycin. Azithromycin có thể được sử dụng ở những bệnh nhân chống chỉ định với tetracycline và phụ nữ mang thai.
Erythromycin có tác dụng khám viêm trực tiếp bằng cách làm giảm các yếu tố hóa hướng động của bạch cầu đa nhân trung tính và các gốc oxy hóa hoạt động. Được xem là thuốc thay thế khi các liệu pháp khác thất bại và có thể sử dụng cho phụ nữ mang thai. Thuốc có ít tác dụng kháng viêm hơn và nhiều tác dụng không mong muốn trên đường tiêu hóa hơn tetracycline. Lưu ý rằng C. acnes có khuynh hướng kháng thuốc với erythromycin nhiều hơn so với tetracycline. Tuy nhiên, nguy cơ nhạy cảm với ánh sáng của erythromycin thấp hơn so với tetracycline.
Doxycycline được xem là thuốc điều trị đầu tay rất tốt cho mụn trứng cá viêm và mụn trứng cá mức độ trung bình đến nặng. Tuy nhiên, tình trạng kháng thuốc của C. acnes cũng đã được báo cáo.
Lymecycline được xem là điều trị đầu tay kết hợp với các thuốc khác để điều trị mụn trứng cá mức độ trung bình đến nặng. Tác dụng không mong muốn trên đường tiêu hóa và da liễu ít xảy ra hơn khi dùng lymecycline.
Tetracycline được xem là thuốc điều trị đầu tay cho mụn trứng cá viêm mức độ trung bình đến nặng, thay thế cho doxycycline. Thuốc có thể xâm nhập vào ống nang lông. Tuy nhiên, sự phát triển tình trạng kháng thuốc của C. acnes là một vấn đề tiềm ẩn và nên nghi ngờ kháng thuốc nếu mụn trứng cá trở nên nặng hơn sau nhiều tháng điều trị.
Minocycline có thể được sử dụng như phương pháp điều trị kháng sinh hàng thứ hai cho mụn trứng cá viêm và mụn trứng cá mức độ trung bình đến nặng. Đáng chú ý là có ít báo cáo về tình trạng kháng thuốc của C. acnes với minocycline so với tetracycline và doxycycline. Tuy nhiên, có khuynh hướng xảy ra các tác dụng không mong muốn nặng hiếm gặp ở minocycline nhiều hơn tetracycline và doxycycline. Sarecycline có thể được sử dụng ở những bệnh nhân ≥9 tuổi để điều trị mụn trứng cá viêm không phải dạng mụn bọc mức độ trung bình đến nặng.
Co-trimoxazole được xem là thuốc điều trị hàng thứ ba khi thất bại với các liệu pháp khác. Thuốc có hiệu quả ở những bệnh nhân không đáp ứng với các kháng sinh đường uống khác hoặc đối với mụn trứng cá do vi khuẩn gram âm. Cần cân nhắc khi là tác dụng không mong muốn nặng có thể xảy ra mặc dù với tỷ lệ thấp.
Isotretinoin
Isotretinoin được khuyến cáo là liệu pháp đầu tay cho mụn trứng cá rất nặng (mụn bọc cục bộ và nang). Đây là thuốc có hiệu quả nhất đối với mụn trứng cá nặng và mụn nang bọc, và có thời gian thuyên giảm kéo dài. Thuốc làm giảm tiết bã nhờn, giảm hình thành nhân mụn, giảm C. acnes trong ống tuyến và bề mặt đến 80%. Thuốc cũng đã được chứng minh là có đặc tính kháng viêm. Quá trình điều trị thường kéo dài 20 tuần với sự cải thiện tiếp tục kéo dài trong tối đa 5 tháng sau khi kết thúc điều trị. Tuy nhiên, có thể xảy ra tái phát ở 15% bệnh nhân; các yếu tố làm tăng nguy cơ tái phát sau khi điều trị bao gồm bệnh tăng tiết bã nhờn nặng, bệnh nhân trẻ, tiền sử gia đình mắc mụn trứng cá, và mụn trứng cá trước tuổi dậy thì và mụn trứng cá ở thân mình. Đây là thuốc được biết là gây dị dạng cho thai nhi và do đó phụ nữ trong độ tuổi sinh sản phải được xét nghiệm xem có thai hay không trước khi điều trị. Các tác dụng không mong muốn nặng có thể hạn chế việc sử dụng thuốc. Isotretinoin liều thấp có thể được sử dụng để giảm tần suất và mức độ nặng của các tác dụng không mong muốn. Cần có sự đồng ý của 2 chuyên gia y tế độc lập khi bắt đầu điều trị bằng isotretinoin cho bệnh nhân <18 tuổi, không đáp ứng hoặc có chống chỉ định với các liệu pháp khác.
Corticosteroid
Corticosteroid đường uống có thể được xem xét ở những bệnh nhân mắc mụn trứng cá mức độ nặng, có đợt bùng phát mụn trứng cá sau khi bắt đầu điều trị bằng isotretinoin đường uống và ở những bệnh nhân mắc mụn trứng cá thể tối cấp.
Thuốc tiêm vào tổn thương
Corticosteroid tiêm vào tổn thương
Như: triamcinolone acetate
Corticosteroid tiêm vào tổn thương có thể được sử dụng cho các tổn thương dạng nang bọc, lớn và nặng.
Liệu pháp bổ trợ
Tẩy tế bào chết hóa học (ngoài acid salicylic )
Như: acid glycolic, acid lactic, acid trichloroacetic
Tẩy tế bào chết hóa học ức chế hoạt động của tyrosinase. Liệu pháp này liên quan đến việc tái tạo bề mặt da ở mặt, trong đó loại bỏ lớp biểu bì làm kích thích tái tạo biểu mô và trẻ hóa da. Tẩy tế bào chết hóa học có thể làm giảm tình trạng tăng sắc tố và sẹo bề mặt da. Liệu pháp được thấy là an toàn, hiệu quả và có thể cải thiện đáng kể tình trạng mụn trứng cá mức độ trung bình ở người châu Á.
Thuốc tiêu sừng
Như: resorcinol, lưu huỳnh
Các tác nhân tiêu sừng như resorcinol và lưu huỳnh có thể được sử dụng để điều trị bổ trợ cùng với các thuốc ngừa mụn khác.
Các liệu pháp khác điều trị mụn trứng cá
Loại bỏ mụn đầu đen có thể được sử dụng đối với mụn đầu đen kháng trị. Ngoài ra, tinh dầu cây trà (Melaleuca alternifolia) làm giảm số lượng tổn thương ở mụn trứng cá mức độ nhẹ đến trung bình. Chiết xuất Psidium guajava có tác dụng kháng khuẩn đối với C. acnes. Lưu ý rằng mặc dù các liệu pháp thảo dược và bổ trợ có vẻ dung nạp tốt, nhưng dữ liệu về tính an toàn và hiệu quả của các liệu pháp này còn hạn chế.
Liệu pháp hormon bổ trợ
Thuốc uống tránh thai
Như: ethinyl estradiol /norgestimate, ethinyl estradiol/norethindrone acetate, ethinyl estradiol /norethindrone acetate /sắt fumarate, ethinyl estradiol/drospirenone, ethinyl estradiol/drospirenone/levomefolate, ethinyl estradiol/gestodene
Thuốc uống tránh thai kết hợp (COC) (estrogen và progestin) là giải pháp thay thế cho những phụ nữ mắc mụn trứng cá ở mức độ trung bình đến nặng, không đáp ứng với các liệu pháp điều trị mụn trứng cá thông thường hoặc tổn thương chỉ giới hạn ở nửa dưới khuôn mặt.
Chống chỉ định tuyệt đối với COC bao gồm:
Cyproterone acetate
Cyproterone acetate là thuốc kháng androgen được sử dụng kèm với ethinyl estradiol hoặc thuốc tránh thai.
Spironolacton
Spironolactone là thuốc kháng androgen thay thế có khả năng cải thiện đáng kể mức độ nặng của mụn trứng cá và sản xuất bã nhờn. Đây là thuốc thay thế cho phụ nữ mắc mụn trứng cá mức độ trung bình đến nặng và không đáp ứng với liệu pháp điều trị thông thường hoặc không muốn dùng isotretinoin. Thuốc làm giảm sản xuất testosterone, ức chế testosterone và dihydrotestosterone liên kết với thụ thể androgen ở da, ức chế 5-alfa-reductase và làm tăng globulin liên kết hormone steroid.
Flutamide
Flutamide là thuốc chẹn thụ thể androgen chọn lọc không steroid đang được nghiên cứu để sử dụng trong điều trị mụn trứng cá. Tuy nhiên, viêm gan gây tử vong do flutamide làm hạn chế việc sử dụng thuốc này để điều trị mụn trứng cá, trừ khi lợi ích lớn hơn nguy cơ.
Các thuốc tác dụng tại chỗ được sử dụng để đạt trạng thái thuyên giảm và trong giai đoạn điều trị duy trì. Thuốc được bôi trực tiếp lên da, tăng sự tiếp xúc của các nang lông với liệu pháp, hạn chế sự hấp thụ vào cơ thể. Thuốc cũng là phương pháp điều trị chính cho bệnh nhân mắc mụn trứng cá mức độ nhẹ và có lợi cho bệnh nhân mắc mụn trứng cá mức độ trung bình. Lưu ý rằng da người châu Á khác với người da trắng, do đó khi kê đơn các thuốc tác dụng tại chỗ, cần cân nhắc đến điều này; da người châu Á dễ tăng sắc tố sau viêm hơn.
Retinoid
Như: adapalene, tazarotene, tretinoin, trifarotene
Retinoid có tác dụng tiêu nhân mụn và đôi khi có tác dụng kháng viêm. Thuốc làm giảm sự hình thành các tổn thương tiền thân của mụn trứng cá (các nhân mụn nhỏ), hạn chế sự phát triển các tổn thương mới, thúc đẩy quá trình bong tróc biểu mô nang lông, và làm giảm các tổn thương viêm và không viêm. Đây là các thuốc hàng đầu có hiệu quả trong điều trị nhân mụn (không viêm) và mụn trứng cá viêm. Ngoài ra, các thuốc này được sử dụng như liệu pháp đơn trị cho mụn trứng cá không viêm, mức độ nhẹ, có nhân, và kết hợp với kháng sinh đối với các tổn thương viêm và mụn trứng cá mức độ trung bình đến nặng. Retinoid hoạt động như chất đồng vận của các thụ thể acid retinoid (RAR) (như RAR- α, RAR- β, RAR- γ), điều hòa phiên mã quá trình tăng sinh tế bào, biệt hóa của tế bào và hiện tượng viêm.
Adapalene có thể có lợi như liệu pháp đơn trị trong các dạng mụn trứng cá mức độ nhẹ đến trung bình, bằng cách giảm cả các tổn thương viêm và không viêm. Thuốc là một chất điều hòa mạnh quá trình sừng hóa, biệt hóa tế bào và quá trình viêm. Thuốc là retinoid tại chỗ được dung nạp tốt nhất, hiệu quả hơn và ít gây kích ứng hơn tretinoin trong điều trị các tổn thương viêm và không viêm. Các nghiên cứu cho thấy adapalene có tác động chọn lọc thụ thể RAR- β/γ, có tác dụng điều hòa giảm các gen quan trọng trong lớp biểu bì, thúc đẩy quá trình thay đổi tế bào sừng và quá trình biệt hóa thay thế. Các thuốc thế hệ mới hơn với tính chọn lọc RAR cao hơn có thể được ưu tiên dùng trên lâm sàng hơn và nguy cơ tác dụng ngoài mục tiêu điều trị thấp hơn so với các thuốc không chọn lọc hoặc các thuốc tác động lên RAR-α và RAR-β (như tretinoin, isotretinoin).
Tazarotene đã được chứng minh là làm giảm số lượng tổn thương không viêm ở mụn trứng cá mức độ nhẹ đến trung bình. Thuốc giảm bớt sự tích tụ và gắn kết của tế bào sừng chết và quá trình viêm. Thuốc liên quan đến tỷ lệ biến cố đỏ da, nóng rát, ngứa và bong tróc cao hơn tretinoin hoặc adapalene.
Tretinoin có hiệu quả như liệu pháp đơn trị trong điều trị mụn trứng cá viêm mức độ nhẹ đến trung bình và mụn trứng cá không viêm. Thuốc làm bình thường hóa quá trình sừng hóa trong nang lông và ngăn ngừa sự hình thành nhân mụn. Tuy nhiên, bệnh nhân nên được cảnh báo rằng họ có thể bị bùng phát mụn mủ trong vài tuần đầu điều trị; bệnh nhân không nên ngừng điều trị vì đợt bùng phát này là chỉ dấu cho việc mụn trứng cá hiện có đang nhanh chóng biến mất. Tretinoin vi cầu dạng gel là một dạng bào chế để cải thiện khả năng dung nạp của tretinoin tác dụng tại chỗ. Các vi cầu cho phép giải phóng thuốc dần dần, có thể hạn chế việc đưa thuốc đến các lớp dưới của da. Thuốc cũng có thể làm giảm kích ứng và do đó làm tăng sự tuân thủ của bệnh nhân. Tretinoin polyprepolymer-2 (PP-2) là hệ thống phân phối thuốc giúp giữ thuốc trên và trong các lớp trên của da, hạn chế kích ứng. Thuốc có thể dung nạp tốt hơn do giảm kích ứng.
Trifarotene là kem retinoid chọn lọc gamma, thích hợp cho mụn trứng cá ở mặt và thân mình. Thuốc có đặc tính tiêu nhân mụn, kháng viêm và chống sắc tố.

Acid azelaic
Acid azelaic là thuốc tác dụng tại chỗ có tác dụng tiêu nhân mụn nhẹ, kháng khuẩn và kháng viêm. Đây là thuốc tác dụng tại chỗ thay thế cho những bệnh nhân không đáp đầy đủ với các điều trị ban đầu. Thuốc được sử dụng kết hợp với lymecycline/doxycycline đường uống để điều trị mụn trứng cá mức độ từ trung bình đến nặng. Thuốc cũng đã được chứng minh là có hiệu quả như benzoyl peroxide, tretinoin và erythromycin tác dụng tại chỗ ở những bệnh nhân có nhân mụn hoặc mắc mụn trứng cá viêm mức độ nhẹ đến trung bình. Thuốc là lựa chọn hàng thứ hai trong điều trị duy trì; là lựa chọn thay thế cho retinoid. Đây là một lựa chọn điều trị cho phụ nữ mang thai bị mụn trứng cá hoặc những bệnh nhân bị mụn trứng cá và có tăng sắc tố sau viêm (PIH). Thuốc cũng có đặc tính kìm khuẩn và có thể làm giảm >97% sự xâm chiếm của vi khuẩn ở nang lông. Thuốc làm bình thường hóa quá trình sừng hóa cùng với giảm quá trình viêm. Các tác dụng không mong muốn tại chỗ thường cao hơn benzoyl peroxide hoặc tretinoin.
Benzoyl peroxide
Liệu pháp đơn trị bằng benzoyl peroxide được sử dụng để điều trị mụn trứng cá có nhân mụn hoặc mụn trứng cá mức độ nhẹ, và thường dùng kết hợp với kháng sinh tại chỗ của retinoid cho mụn trứng cá mức độ nhẹ đến trung bình. Thuốc được xem là nền tảng trong điều trị mụn trứng cá. Thuốc có hoạt tính diệt khuẩn, làm giảm C. acnes bằng cách sản xuất các gốc tự do có tính oxy hóa trong nang lông tuyến bã nhờn sau một liệu trình điều trị ngắn, dẫn đến cải thiện nhanh các tổn thương viêm và không viêm, và không gây ra tình trạng kháng thuốc của vi khuẩn. Thuốc có tác dụng tiêu nhân mụn, kháng khuẩn và kháng viêm nhẹ.
Kháng sinh
Như: clindamycin, dapsone, erythromycin, minocycline
Kháng sinh tác dụng tại chỗ có lợi đối với mụn trứng cá mức độ nhẹ đến trung bình có tổn thương viêm kết hợp với các thuốc tác dụng tại chỗ khác. Thuốc làm giảm C. acnes trong nang lông tuyến bã nhờn và có đặc tính kháng viêm.
Tuy nhiên, do nguy cơ đề kháng kháng sinh, cần cân nhắc những điều sau:
- Không nên sử dụng như liệu pháp đơn trị cho mụn trứng cá mức độ từ trung bình đến nặng hoặc điều trị duy trì cho mụn trứng cá
- Khuyến cáo nên sử dụng kháng sinh tác dụng tại chỗ kết hợp với benzoyl peroxide hoặc retinoid
- Khi có thể, thời gian điều trị chỉ kéo dài tối đa 12 tuần
Acid salicylic
Acid salicylic có thể được sử dụng trong trường hợp mụn trứng cá mức độ nhẹ đến trung bình hoặc dùng như một thuốc bổ trợ khi bệnh nhân không dung nạp với điều trị tiêu chuẩn. Chất này thường được tìm thấy trong các sữa rửa mặt. Thuốc cũng là lựa chọn hàng thứ ba trong điều trị duy trì. Thuốc có tác dụng tiêu nhân mụn và kháng viêm nhẹ. Có nhiều sản phẩm khác nhau chứa acid salicylic. Vui lòng xem MIMS phiên bản mới nhất để biết các dạng bào chế chuyên biệt và thông tin kê toa.
Clascoterone
Clascoterone là thuốc ức chế thụ thể androgen được chấp thuận để điều trị mụn trứng cá ở bệnh nhân ≥12 tuổi. Đây là thuốc tác dụng tại chỗ thay thế cho những bệnh nhân không đáp ứng đầy đủ với điều trị ban đầu.
Các lưu ý khi lựa chọn thuốc tác dụng tại chỗ
Loại da của bệnh nhân
Đối với da dầu, dạng gel hoặc dung dịch được ưu tiên hơn. Ở các nước nóng ẩm, lotion trị mụn có chứa acid salicylic và resorcinol có tác dụng làm khô da. Ngược lại, dạng kem hoặc thuốc mỡ thường được ưu tiên hơn đối với da khô.
Kết hợp thuốc
Nếu sử dụng >1 thuốc tác dụng tại chỗ, tốt nhất là hướng dẫn bệnh nhân bôi 1 thuốc vào buổi sáng và thuốc còn lại vào buổi tối. Kết hợp thuốc tác dụng tại chỗ để điều trị mụn trứng cá cho thấy hiệu quả hơn và được ưu tiên hơn so với chỉ dùng kháng sinh tác dụng tại chỗ. Sự kết hợp thuốc nên bao gồm các thuốc từ các nhóm khác nhau (như benzoyl peroxide kết hợp với kháng sinh tác dụng tại chỗ, benzoyl peroxide kết hợp với retinoid tác dụng tại chỗ, tretinoin kết hợp với kháng sinh tác dụng tại chỗ, acid azelaic kết hợp với lymecycline/doxycycline, kháng sinh tác dụng tại chỗ kết hợp với retinoid tác dụng tại chỗ kết hợp với benzoyl peroxide). Các dạng kết hợp retinoid-benzoyl peroxide bị hạn chế do tính không ổn định của retinoid (trừ adapalene). Tuy nhiên, các kết hợp này là điều trị đầu tay được khuyến cáo ở những bệnh nhân mắc mụn trứng cá viêm, có nhân mụn hoặc cả hai.
Hiện có các sản phẩm kết hợp liều cố định của thuốc từ các nhóm khác nhau. Các sản phẩm kết hợp với liều cố định có thể thuận tiện hơn và làm tăng sự tuân thủ của bệnh nhân. Các dạng kết hợp thuốc tác dụng tại chỗ với liều cố định được khuyến cáo bao gồm benzoyl peroxide và retinoid tác dụng tại chỗ, benzoyl peroxide và kháng sinh tác dụng tại chỗ, và retinoid tác dụng tại chỗ và kháng sinh tác dụng tại chỗ. Adapalene kết hợp với benzoyl peroxide là thuốc kết hợp tác dụng tại chỗ với liều cố định đầu tiên được dùng cho mụn trứng cá viêm mức độ nặng. Thuốc có hiệu quả cao hơn ngay từ tuần đầu tiên điều trị so với liệu pháp đơn trị. Thuốc cũng có thể được sử dụng riêng lẻ hoặc kết hợp với các liệu pháp khác trước khi kê toa isotretinoin đường uống. Adapalene kết hợp với benzoyl peroxide kết hợp với doxycycline là phương pháp điều trị thay thế cho isotretinoin ở những bệnh nhân mắc mụn trứng cá mức độ nặng không dung nạp hoặc không muốn dùng isotretinoin.
Thuốc uống
Thuốc uống là lựa chọn điều trị ưu tiên cho các trường hợp mụn trứng cá không đáp ứng với điều trị tại chỗ, mụn trứng cá có nguy cơ cao để lại sẹo hoặc ở những bệnh nhân có mụn bọc.
Kháng sinh
Kháng sinh không bao giờ được sử dụng như liệu pháp đơn trị cho mụn trứng cá mức độ trung bình đến nặng. Thuốc thường được sử dụng cho mụn trứng cá viêm mức độ trung bình đến nặng, không đáp ứng với các thuốc tác dụng tại chỗ dạng kết hợp hoặc mụn trứng cá có khả năng cao để lại sẹo. Việc lựa chọn kháng sinh dựa trên hồ sơ tác dụng không mong muốn và các mô hình kháng thuốc tại địa phương. Liệu trình điều trị tối đa nên là 3-4 tháng, nhưng nên đánh giá đáp ứng điều trị sau 6-8 tuần. Kháng sinh ức chế sự phát triển của C. acnes, giúp giảm sản xuất các yếu tố gây viêm.
Đề kháng kháng sinh khi sử dụng azithromycin đã được báo cáo. Azithromycin nên được sử dụng thận trọng ở những bệnh nhân có nguy cơ gặp tác dụng không mong muốn nặng như hoại tử biểu bì nhiễm độc, nhưng ít tác dụng không mong muốn hơn so với erythromycin. Azithromycin có thể được sử dụng ở những bệnh nhân chống chỉ định với tetracycline và phụ nữ mang thai.
Erythromycin có tác dụng khám viêm trực tiếp bằng cách làm giảm các yếu tố hóa hướng động của bạch cầu đa nhân trung tính và các gốc oxy hóa hoạt động. Được xem là thuốc thay thế khi các liệu pháp khác thất bại và có thể sử dụng cho phụ nữ mang thai. Thuốc có ít tác dụng kháng viêm hơn và nhiều tác dụng không mong muốn trên đường tiêu hóa hơn tetracycline. Lưu ý rằng C. acnes có khuynh hướng kháng thuốc với erythromycin nhiều hơn so với tetracycline. Tuy nhiên, nguy cơ nhạy cảm với ánh sáng của erythromycin thấp hơn so với tetracycline.
Doxycycline được xem là thuốc điều trị đầu tay rất tốt cho mụn trứng cá viêm và mụn trứng cá mức độ trung bình đến nặng. Tuy nhiên, tình trạng kháng thuốc của C. acnes cũng đã được báo cáo.
Lymecycline được xem là điều trị đầu tay kết hợp với các thuốc khác để điều trị mụn trứng cá mức độ trung bình đến nặng. Tác dụng không mong muốn trên đường tiêu hóa và da liễu ít xảy ra hơn khi dùng lymecycline.
Tetracycline được xem là thuốc điều trị đầu tay cho mụn trứng cá viêm mức độ trung bình đến nặng, thay thế cho doxycycline. Thuốc có thể xâm nhập vào ống nang lông. Tuy nhiên, sự phát triển tình trạng kháng thuốc của C. acnes là một vấn đề tiềm ẩn và nên nghi ngờ kháng thuốc nếu mụn trứng cá trở nên nặng hơn sau nhiều tháng điều trị.
Minocycline có thể được sử dụng như phương pháp điều trị kháng sinh hàng thứ hai cho mụn trứng cá viêm và mụn trứng cá mức độ trung bình đến nặng. Đáng chú ý là có ít báo cáo về tình trạng kháng thuốc của C. acnes với minocycline so với tetracycline và doxycycline. Tuy nhiên, có khuynh hướng xảy ra các tác dụng không mong muốn nặng hiếm gặp ở minocycline nhiều hơn tetracycline và doxycycline. Sarecycline có thể được sử dụng ở những bệnh nhân ≥9 tuổi để điều trị mụn trứng cá viêm không phải dạng mụn bọc mức độ trung bình đến nặng.
Co-trimoxazole được xem là thuốc điều trị hàng thứ ba khi thất bại với các liệu pháp khác. Thuốc có hiệu quả ở những bệnh nhân không đáp ứng với các kháng sinh đường uống khác hoặc đối với mụn trứng cá do vi khuẩn gram âm. Cần cân nhắc khi là tác dụng không mong muốn nặng có thể xảy ra mặc dù với tỷ lệ thấp.
Isotretinoin
Isotretinoin được khuyến cáo là liệu pháp đầu tay cho mụn trứng cá rất nặng (mụn bọc cục bộ và nang). Đây là thuốc có hiệu quả nhất đối với mụn trứng cá nặng và mụn nang bọc, và có thời gian thuyên giảm kéo dài. Thuốc làm giảm tiết bã nhờn, giảm hình thành nhân mụn, giảm C. acnes trong ống tuyến và bề mặt đến 80%. Thuốc cũng đã được chứng minh là có đặc tính kháng viêm. Quá trình điều trị thường kéo dài 20 tuần với sự cải thiện tiếp tục kéo dài trong tối đa 5 tháng sau khi kết thúc điều trị. Tuy nhiên, có thể xảy ra tái phát ở 15% bệnh nhân; các yếu tố làm tăng nguy cơ tái phát sau khi điều trị bao gồm bệnh tăng tiết bã nhờn nặng, bệnh nhân trẻ, tiền sử gia đình mắc mụn trứng cá, và mụn trứng cá trước tuổi dậy thì và mụn trứng cá ở thân mình. Đây là thuốc được biết là gây dị dạng cho thai nhi và do đó phụ nữ trong độ tuổi sinh sản phải được xét nghiệm xem có thai hay không trước khi điều trị. Các tác dụng không mong muốn nặng có thể hạn chế việc sử dụng thuốc. Isotretinoin liều thấp có thể được sử dụng để giảm tần suất và mức độ nặng của các tác dụng không mong muốn. Cần có sự đồng ý của 2 chuyên gia y tế độc lập khi bắt đầu điều trị bằng isotretinoin cho bệnh nhân <18 tuổi, không đáp ứng hoặc có chống chỉ định với các liệu pháp khác.
Corticosteroid
Corticosteroid đường uống có thể được xem xét ở những bệnh nhân mắc mụn trứng cá mức độ nặng, có đợt bùng phát mụn trứng cá sau khi bắt đầu điều trị bằng isotretinoin đường uống và ở những bệnh nhân mắc mụn trứng cá thể tối cấp.
Thuốc tiêm vào tổn thương
Corticosteroid tiêm vào tổn thương
Như: triamcinolone acetate
Corticosteroid tiêm vào tổn thương có thể được sử dụng cho các tổn thương dạng nang bọc, lớn và nặng.
Liệu pháp bổ trợ
Tẩy tế bào chết hóa học (ngoài acid salicylic )
Như: acid glycolic, acid lactic, acid trichloroacetic
Tẩy tế bào chết hóa học ức chế hoạt động của tyrosinase. Liệu pháp này liên quan đến việc tái tạo bề mặt da ở mặt, trong đó loại bỏ lớp biểu bì làm kích thích tái tạo biểu mô và trẻ hóa da. Tẩy tế bào chết hóa học có thể làm giảm tình trạng tăng sắc tố và sẹo bề mặt da. Liệu pháp được thấy là an toàn, hiệu quả và có thể cải thiện đáng kể tình trạng mụn trứng cá mức độ trung bình ở người châu Á.
Thuốc tiêu sừng
Như: resorcinol, lưu huỳnh
Các tác nhân tiêu sừng như resorcinol và lưu huỳnh có thể được sử dụng để điều trị bổ trợ cùng với các thuốc ngừa mụn khác.
Các liệu pháp khác điều trị mụn trứng cá
Loại bỏ mụn đầu đen có thể được sử dụng đối với mụn đầu đen kháng trị. Ngoài ra, tinh dầu cây trà (Melaleuca alternifolia) làm giảm số lượng tổn thương ở mụn trứng cá mức độ nhẹ đến trung bình. Chiết xuất Psidium guajava có tác dụng kháng khuẩn đối với C. acnes. Lưu ý rằng mặc dù các liệu pháp thảo dược và bổ trợ có vẻ dung nạp tốt, nhưng dữ liệu về tính an toàn và hiệu quả của các liệu pháp này còn hạn chế.
Liệu pháp hormon bổ trợ
Thuốc uống tránh thai
Như: ethinyl estradiol /norgestimate, ethinyl estradiol/norethindrone acetate, ethinyl estradiol /norethindrone acetate /sắt fumarate, ethinyl estradiol/drospirenone, ethinyl estradiol/drospirenone/levomefolate, ethinyl estradiol/gestodene
Thuốc uống tránh thai kết hợp (COC) (estrogen và progestin) là giải pháp thay thế cho những phụ nữ mắc mụn trứng cá ở mức độ trung bình đến nặng, không đáp ứng với các liệu pháp điều trị mụn trứng cá thông thường hoặc tổn thương chỉ giới hạn ở nửa dưới khuôn mặt.
Chống chỉ định tuyệt đối với COC bao gồm:
- Sau sinh <21 ngày
- ≥35 tuổi và tiền sử hút thuốc lá ≥15 điếu/ngày
- Tăng huyết áp (≥160/≥100 mmHg)
- Bệnh động mạch vành/bệnh mạch máu não
- Huyết khối tĩnh mạch sâu, thuyên tắc phổi, đã biết có đột biến gen tạo huyết khối
- Phẫu thuật lớn với thời gian bất động kéo dài
- Bệnh van tim có biến chứng (như rung nhĩ, tăng áp phổi)
- Bệnh cơ tim chu sinh có chức năng tim bình thường hoặc giảm <6 tháng hoặc suy giảm chức năng tim mức độ trung bình hoặc nặng
- Đau nửa đầu có hoặc không có tiền triệu nếu >35 tuổi
- Hiện tại mắc ung thư vú
- Bệnh đái tháo đường có biến chứng
- Viêm gan siêu vi cấp, xơ gan mất bù, u gan, ung thư gan tế bào tuyến
- Bệnh lupus ban đỏ hệ thống có kháng thể kháng phospholipid dương tính hoặc không rõ
- Ghép tạng đặc có biến chứng thải ghép cấp tính hoặc mạn tính, thải ghép hoặc bệnh lý mạch máu do ghép tim
- Bệnh nhân cho con bú 21-29 ngày sau sinh
- Bệnh nhân cho con bú 30-42 ngày sau sinh, có các yếu tố nguy cơ VTE khác
- Bệnh nhân không cho con bú từ 21-42 ngày sau sinh, có các yếu tố nguy cơ VTE khác
- >35 tuổi và tiền sử hút thuốc <15 điếu/ngày
- Tăng huyết áp (140-159/90-99 mmHg)
- Nhiều yếu tố nguy cơ gây bệnh tim mạch và tăng lipid máu
- Bệnh cơ tim chu sinh với chức năng tim bình thường hoặc giảm nhẹ ≥6 tháng
- Tiền sử ung thư vú >5 năm trước không tái phát gần đây
- Xơ gan còn bù nhẹ, tiền sử ứ mật do COC, bệnh lý túi mật, đồng thời dùng thuốc có khả năng gây tăng transaminase
- Tiền sử thực hiện các thủ thuật điều trị gây kém hấp thu (phẫu thuật cắt dạ dày Roux-en-Y hoặc chuyển dòng mật tụy)
Cyproterone acetate
Cyproterone acetate là thuốc kháng androgen được sử dụng kèm với ethinyl estradiol hoặc thuốc tránh thai.
Spironolacton
Spironolactone là thuốc kháng androgen thay thế có khả năng cải thiện đáng kể mức độ nặng của mụn trứng cá và sản xuất bã nhờn. Đây là thuốc thay thế cho phụ nữ mắc mụn trứng cá mức độ trung bình đến nặng và không đáp ứng với liệu pháp điều trị thông thường hoặc không muốn dùng isotretinoin. Thuốc làm giảm sản xuất testosterone, ức chế testosterone và dihydrotestosterone liên kết với thụ thể androgen ở da, ức chế 5-alfa-reductase và làm tăng globulin liên kết hormone steroid.
Flutamide
Flutamide là thuốc chẹn thụ thể androgen chọn lọc không steroid đang được nghiên cứu để sử dụng trong điều trị mụn trứng cá. Tuy nhiên, viêm gan gây tử vong do flutamide làm hạn chế việc sử dụng thuốc này để điều trị mụn trứng cá, trừ khi lợi ích lớn hơn nguy cơ.
Điều trị không dùng thuốc
Giáo dục bệnh nhân
Giao tiếp tốt giữa bác sĩ lâm sàng và bệnh nhân là rất quan trọng. Không tuân thủ là nguyên nhân phổ biến nhất dẫn đến thất bại điều trị mụn trứng cá. Ngoài ra, bệnh nhân tuổi dậy thì có thể nhạy cảm với sự thiếu thừa nhận của bác sĩ, mà thái độ này thực tế là có hoặc là được cho là có. Bằng cách đưa bệnh nhân các hướng dẫn rõ ràng và kỳ vọng thực tế, có thể tránh được tình trạng không tuân thủ điều trị. Bệnh nhân cũng nên biết rằng phương pháp điều trị sẽ kiểm soát mụn trứng cá, mà không phải là chữa khỏi bệnh. Lưu ý rằng nhiều bệnh nhân mắc mụn trứng cá đã đi từ hy vọng đến thất vọng với kết quả điều trị. Cần điều trị lâu dài để kiểm soát các tổn thương. Mụn trứng cá có khuynh hướng nhẹ hơn khi tuổi tăng lên. Bệnh nhân cần được cho biết rằng thuốc điều trị mụn cần đến 8-12 tuần để có tác dụng và không có "phương pháp điều trị nhanh chóng". Đối với những bệnh nhân có trang điểm, nên sử dụng các sản phẩm không chứa dầu, không gây mụn và nên tẩy trang vào cuối ngày.
Chế độ ăn uống và mụn trứng cá
Không có khuyến cáo cụ thể nào về mối tương quan giữa chế độ ăn uống và mức độ nặng của mụn trứng cá, do đó lời khuyên cho bệnh nhân nên được cá nhân hóa. Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng thực phẩm có hàm lượng đường cao, sô-cô-la và sữa có thể liên quan đến mụn trứng cá, do đó chế độ ăn có chỉ số đường thấp và tránh tiêu thụ sô-cô-la và sữa có thể được khuyến khích ở bệnh nhân.
Khuyến cáo chăm sóc da
Chăm sóc da thường quy hiệu quả sẽ cải thiện sự tự tin, chất lượng cuộc sống và hình ảnh bản thân của bệnh nhân. Nên rửa vùng bị ảnh hưởng 2 lần/ngày bằng xà phòng có tính tẩy nhẹ hoặc sữa rửa mặt có độ pH cân bằng, thấm khô, sau đó thoa thuốc điều trị mụn. Sữa rửa mặt không nên gây kích ứng, không gây dị ứng, không tạo nhân mụn, không gây mụn và không chứa cồn nhưng vẫn loại bỏ chất bẩn và chất nhờn dư thừa. Rửa mặt thường xuyên, đặc biệt là với xà phòng có tính tẩy mạnh, có thể làm nặng thêm tình trạng bệnh. Thuốc điều trị mụn tác dụng tại chỗ cần được thoa một lớp mỏng lên tất cả các vùng dễ bị mụn, không chỉ ở riêng các tổn thương.
Lựa chọn dạng bào chế thích hợp có thể làm giảm tác dụng không mong muốn và tăng khả năng tuân thủ: nên tránh dùng kem và lotion cho da rất khô, gel và dung dịch cho da rất nhờn và sữa rửa mặt dạng kem. Nếu da bị khô do điều trị tại chỗ, bệnh nhân có thể sử dụng kem dưỡng ẩm không chứa dầu, ít gây dị ứng, không tạo nhân mụn, không chứa cồn và không mùi. Sử dụng kem chống nắng nếu được kê toa kháng sinh hoặc retinoid, đây là các chất gây nhạy cảm với ánh sáng. Bảo vệ da khỏi ánh sáng là cần thiết để giảm nguy cơ sạm da, lão hóa do ánh sáng và kích hoạt các bệnh tiềm ẩn ở da. Kem chống nắng cũng có thể được thoa khi ở trong nhà để giúp bảo vệ khỏi ánh sáng nhìn thấy được (ánh sáng xanh từ máy vi tính, điện thoại di động, đèn trong nhà) mà bệnh nhân tiếp xúc trong thời gian dài hơn khi ở trong nhà vào thời gian đại dịch.
Quan trọng là tránh nặn mụn. Các tổn thương do chấn thương có thể dẫn đến tình trạng viêm tăng lên, kéo dài thời gian phục hồi và tăng nguy cơ để lại sẹo. Mụn không nên được che phủ bằng quần áo bó sát hoặc băng kín.
Dược mỹ phẩm
Dược mỹ phẩm (dermatocosmetics hoặc “cosmeceuticals”) được sử dụng để bổ trợ với điều trị mụn chuẩn và hỗ trợ làm giảm tác dụng không mong muốn (như kích ứng, khô, nhạy cảm với ánh sáng) và giảm nhu cầu dùng kháng sinh tác dụng tại chỗ. Bao gồm sữa rửa mặt, sản phẩm tiêu nhân mụn, dưỡng ẩm, kiểm soát bã nhờn, kháng viêm/kháng khuẩn, kem chống nắng, làm sáng da và các sản phẩm trang điểm. Cũng cần nhấn mạnh tầm quan trọng của việc làm sạch, điều trị, dưỡng ẩm và bảo vệ da khỏi ánh sáng trong quá trình chăm sóc da toàn diện. Các sản phẩm này cải thiện các triệu chứng và giảm tác dụng không mong muốn của các thuốc tác dụng tại chỗ. Ngoài ra, các sản phẩm này cũng có thể điều chỉnh hệ vi sinh vật trên da trong mụn trứng cá, khiến các sản phẩm trở thành phương pháp điều trị thay thế tiềm năng trong điều trị mụn trứng cá mà không có nguy cơ đề kháng kháng sinh. Sử dụng vừa phải các sản phẩm bôi trơn không chứa dầu và mỹ phẩm gốc nước thường dung nạp tốt, nhưng nên giảm dần việc sử dụng các mỹ phẩm này khi tình trạng mụn trứng cá được cải thiện.
Các thiết bị dựa trên năng lượng
Ánh sáng xung cường độ cao (IPL)
IPL làm giảm lượng bã nhờn tiết ra bằng cách phá hủy trực tiếp các tuyến bã nhờn.
Liệu pháp laser
Như: laser thủy tinh erbium, laser nhôm garnet yttrium pha tạp neodymium (Nd:YAG), laser nhuộm xung, laser phân đoạn không gây mòn
Cơ chế của liệu pháp laser là tổn thương do quang đông hoặc quang nhiệt gây ra có tác dụng diệt khuẩn và làm giảm kích thước tuyến bã nhờn.
Liệu pháp dựa trên ánh sáng
Liệu pháp ánh sáng xanh có bước sóng ngắn hơn và có tác dụng diệt khuẩn đối với C. acnes. Ánh sáng đỏ có thể xâm nhập vào các mô sâu hơn, có thể dẫn đến các phản ứng kháng viêm và thúc đẩy quá trình phục hồi da.
Liệu pháp quang động (PDT)
PDT bao gồm việc sử dụng ánh sáng để kích hoạt các sản phẩm nhạy sáng như acid 5-aminolevulinic (ALA), methyl aminolevulinate (MAL) và indocyanine green (ICG). Liệu pháp cũng có thể được sử dụng bổ trợ cho điều trị nội khoa cho đến khi hiệu quả của chúng được xác định tốt hơn. PDT cũng gây tổn thương cấu trúc màng tế bào vi khuẩn, làm giảm quần thể vi khuẩn và dẫn đến giảm các tổn thương mụn viêm đến 59-67%. Trong số các phương thức khác nhau, ALA-PDT là phương thức được nghiên cứu rộng rãi nhất. Liệu pháp mang lại kết quả tốt nhất khi sử dụng để điều trị mụn viêm và mụn nang.
Điều trị PDT có thể được thực hiện trong 8-15 phút và thường dung nạp tốt. Đáng chú ý, trung bình 3 lần điều trị có thể mang lại sự cải thiện đáng kể trong thời gian dài. Cuối cùng, cần tránh ánh nắng mặt trời và bảo vệ trong tối đa 48 giờ sau khi điều trị.
Acne Vulgaris_Management 2
Điều trị bằng tần số vô tuyến (RF)
Như: RF đơn cực, RF lưỡng cực, RF phân đoạn
Phương pháp điều trị RF sử dụng năng lượng cao gây tổn thương nhiệt ở lớp sâu của hạ bì, dẫn đến phá hủy tuyến bã nhờn.
Chuyển đến bác sĩ chuyên khoa
Việc chuyển đến bác sĩ chuyên khoa được xem xét khi có những dấu hiệu sau:
Giao tiếp tốt giữa bác sĩ lâm sàng và bệnh nhân là rất quan trọng. Không tuân thủ là nguyên nhân phổ biến nhất dẫn đến thất bại điều trị mụn trứng cá. Ngoài ra, bệnh nhân tuổi dậy thì có thể nhạy cảm với sự thiếu thừa nhận của bác sĩ, mà thái độ này thực tế là có hoặc là được cho là có. Bằng cách đưa bệnh nhân các hướng dẫn rõ ràng và kỳ vọng thực tế, có thể tránh được tình trạng không tuân thủ điều trị. Bệnh nhân cũng nên biết rằng phương pháp điều trị sẽ kiểm soát mụn trứng cá, mà không phải là chữa khỏi bệnh. Lưu ý rằng nhiều bệnh nhân mắc mụn trứng cá đã đi từ hy vọng đến thất vọng với kết quả điều trị. Cần điều trị lâu dài để kiểm soát các tổn thương. Mụn trứng cá có khuynh hướng nhẹ hơn khi tuổi tăng lên. Bệnh nhân cần được cho biết rằng thuốc điều trị mụn cần đến 8-12 tuần để có tác dụng và không có "phương pháp điều trị nhanh chóng". Đối với những bệnh nhân có trang điểm, nên sử dụng các sản phẩm không chứa dầu, không gây mụn và nên tẩy trang vào cuối ngày.
Chế độ ăn uống và mụn trứng cá
Không có khuyến cáo cụ thể nào về mối tương quan giữa chế độ ăn uống và mức độ nặng của mụn trứng cá, do đó lời khuyên cho bệnh nhân nên được cá nhân hóa. Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng thực phẩm có hàm lượng đường cao, sô-cô-la và sữa có thể liên quan đến mụn trứng cá, do đó chế độ ăn có chỉ số đường thấp và tránh tiêu thụ sô-cô-la và sữa có thể được khuyến khích ở bệnh nhân.
Khuyến cáo chăm sóc da
Chăm sóc da thường quy hiệu quả sẽ cải thiện sự tự tin, chất lượng cuộc sống và hình ảnh bản thân của bệnh nhân. Nên rửa vùng bị ảnh hưởng 2 lần/ngày bằng xà phòng có tính tẩy nhẹ hoặc sữa rửa mặt có độ pH cân bằng, thấm khô, sau đó thoa thuốc điều trị mụn. Sữa rửa mặt không nên gây kích ứng, không gây dị ứng, không tạo nhân mụn, không gây mụn và không chứa cồn nhưng vẫn loại bỏ chất bẩn và chất nhờn dư thừa. Rửa mặt thường xuyên, đặc biệt là với xà phòng có tính tẩy mạnh, có thể làm nặng thêm tình trạng bệnh. Thuốc điều trị mụn tác dụng tại chỗ cần được thoa một lớp mỏng lên tất cả các vùng dễ bị mụn, không chỉ ở riêng các tổn thương.
Lựa chọn dạng bào chế thích hợp có thể làm giảm tác dụng không mong muốn và tăng khả năng tuân thủ: nên tránh dùng kem và lotion cho da rất khô, gel và dung dịch cho da rất nhờn và sữa rửa mặt dạng kem. Nếu da bị khô do điều trị tại chỗ, bệnh nhân có thể sử dụng kem dưỡng ẩm không chứa dầu, ít gây dị ứng, không tạo nhân mụn, không chứa cồn và không mùi. Sử dụng kem chống nắng nếu được kê toa kháng sinh hoặc retinoid, đây là các chất gây nhạy cảm với ánh sáng. Bảo vệ da khỏi ánh sáng là cần thiết để giảm nguy cơ sạm da, lão hóa do ánh sáng và kích hoạt các bệnh tiềm ẩn ở da. Kem chống nắng cũng có thể được thoa khi ở trong nhà để giúp bảo vệ khỏi ánh sáng nhìn thấy được (ánh sáng xanh từ máy vi tính, điện thoại di động, đèn trong nhà) mà bệnh nhân tiếp xúc trong thời gian dài hơn khi ở trong nhà vào thời gian đại dịch.
Quan trọng là tránh nặn mụn. Các tổn thương do chấn thương có thể dẫn đến tình trạng viêm tăng lên, kéo dài thời gian phục hồi và tăng nguy cơ để lại sẹo. Mụn không nên được che phủ bằng quần áo bó sát hoặc băng kín.
Dược mỹ phẩm
Dược mỹ phẩm (dermatocosmetics hoặc “cosmeceuticals”) được sử dụng để bổ trợ với điều trị mụn chuẩn và hỗ trợ làm giảm tác dụng không mong muốn (như kích ứng, khô, nhạy cảm với ánh sáng) và giảm nhu cầu dùng kháng sinh tác dụng tại chỗ. Bao gồm sữa rửa mặt, sản phẩm tiêu nhân mụn, dưỡng ẩm, kiểm soát bã nhờn, kháng viêm/kháng khuẩn, kem chống nắng, làm sáng da và các sản phẩm trang điểm. Cũng cần nhấn mạnh tầm quan trọng của việc làm sạch, điều trị, dưỡng ẩm và bảo vệ da khỏi ánh sáng trong quá trình chăm sóc da toàn diện. Các sản phẩm này cải thiện các triệu chứng và giảm tác dụng không mong muốn của các thuốc tác dụng tại chỗ. Ngoài ra, các sản phẩm này cũng có thể điều chỉnh hệ vi sinh vật trên da trong mụn trứng cá, khiến các sản phẩm trở thành phương pháp điều trị thay thế tiềm năng trong điều trị mụn trứng cá mà không có nguy cơ đề kháng kháng sinh. Sử dụng vừa phải các sản phẩm bôi trơn không chứa dầu và mỹ phẩm gốc nước thường dung nạp tốt, nhưng nên giảm dần việc sử dụng các mỹ phẩm này khi tình trạng mụn trứng cá được cải thiện.
Các thiết bị dựa trên năng lượng
Ánh sáng xung cường độ cao (IPL)
IPL làm giảm lượng bã nhờn tiết ra bằng cách phá hủy trực tiếp các tuyến bã nhờn.
Liệu pháp laser
Như: laser thủy tinh erbium, laser nhôm garnet yttrium pha tạp neodymium (Nd:YAG), laser nhuộm xung, laser phân đoạn không gây mòn
Cơ chế của liệu pháp laser là tổn thương do quang đông hoặc quang nhiệt gây ra có tác dụng diệt khuẩn và làm giảm kích thước tuyến bã nhờn.
Liệu pháp dựa trên ánh sáng
Liệu pháp ánh sáng xanh có bước sóng ngắn hơn và có tác dụng diệt khuẩn đối với C. acnes. Ánh sáng đỏ có thể xâm nhập vào các mô sâu hơn, có thể dẫn đến các phản ứng kháng viêm và thúc đẩy quá trình phục hồi da.
Liệu pháp quang động (PDT)
PDT bao gồm việc sử dụng ánh sáng để kích hoạt các sản phẩm nhạy sáng như acid 5-aminolevulinic (ALA), methyl aminolevulinate (MAL) và indocyanine green (ICG). Liệu pháp cũng có thể được sử dụng bổ trợ cho điều trị nội khoa cho đến khi hiệu quả của chúng được xác định tốt hơn. PDT cũng gây tổn thương cấu trúc màng tế bào vi khuẩn, làm giảm quần thể vi khuẩn và dẫn đến giảm các tổn thương mụn viêm đến 59-67%. Trong số các phương thức khác nhau, ALA-PDT là phương thức được nghiên cứu rộng rãi nhất. Liệu pháp mang lại kết quả tốt nhất khi sử dụng để điều trị mụn viêm và mụn nang.
Điều trị PDT có thể được thực hiện trong 8-15 phút và thường dung nạp tốt. Đáng chú ý, trung bình 3 lần điều trị có thể mang lại sự cải thiện đáng kể trong thời gian dài. Cuối cùng, cần tránh ánh nắng mặt trời và bảo vệ trong tối đa 48 giờ sau khi điều trị.

Điều trị bằng tần số vô tuyến (RF)
Như: RF đơn cực, RF lưỡng cực, RF phân đoạn
Phương pháp điều trị RF sử dụng năng lượng cao gây tổn thương nhiệt ở lớp sâu của hạ bì, dẫn đến phá hủy tuyến bã nhờn.
Chuyển đến bác sĩ chuyên khoa
Việc chuyển đến bác sĩ chuyên khoa được xem xét khi có những dấu hiệu sau:
- Mụn bọc cục bộ
- Mụn nang bọc
- Không chắc chắn với chẩn đoán
- Mụn trứng cá mức độ nhẹ đến trung bình không đáp ứng với 2 liệu trình điều trị
- Sẹo hoặc thay đổi sắc tố
- Mụn trứng cá mức độ trung bình đến nặng không đáp ứng với điều trị kết hợp với kháng sinh
- Căng thẳng tâm lý hoặc rối loạn sức khỏe tâm thần do mụn trứng cá
- Bệnh lý hoặc thuốc có thể là yếu tố góp phần gây ra mụn trứng cá
- Chỉ định điều trị thực thể theo chuyên khoa (như rạch, dẫn lưu)
- Cần chuyển tuyến khẩn cấp khi nghi ngờ mụn trứng cá thể tối cấp