Content:
Xét nghiệm và hỗ trợ chẩn đoán
Nội dung của trang này:
Xét nghiệm và hỗ trợ chẩn đoán
Nội dung của trang này:
Xét nghiệm và hỗ trợ chẩn đoán
Xét nghiệm và hỗ trợ chẩn đoán
Dựa vào tiền sử đáng tin cậy, định lượng IgE đặc hiệu trong huyết thanh, nghiệm pháp lẩy da và nghiệm pháp miếng dán thực phẩm có thể xác định nguyên nhân. Tuy nhiên, phản vệ có thể xảy ra ở bệnh nhân không có biểu hiện ngoài da hoặc IgE đặc hiệu. Nghiệm pháp lẩy da và các xét nghiệm in vitro có thể giúp xác định kháng thể IgE đặc hiệu phản ứng với dị nguyên gây bệnh. Cần lưu ý rằng nghiệm pháp da đánh giá phản ứng quá mẫn tức thì nên được trì hoãn 4–6 tuần sau cơn phản vệ chu phẫu.
Anaphylaxis (Pediatric)_Diagnostics
Thử nghiệm thực phẩm được chỉ định khi tiền sử cho thấy phản vệ đe dọa tính mạng mà không xác định được dị nguyên dựa vào tiền sử và xét nghiệm, hoặc khi nghi ngờ bệnh nhân đã hết nhạy cảm với thực phẩm. Thử nghiệm vận động có thể được thực hiện nếu vận động được xem là yếu tố làm nặng thêm phản ứng.
Xét nghiệm nồng độ tryptase huyết thanh không đặc hiệu cho phản vệ, nhưng đôi khi hữu ích để hỗ trợ chẩn đoán lâm sàng. Nồng độ tryptase ban đầu nên được đo ở các bệnh nhân có tiền sử phản vệ nặng, tái phát hoặc vô căn; phản vệ do nọc độc côn trùng thuộc bộ cánh màng (Hymenoptera); phản vệ nặng do côn trùng đốt (không phải bộ cánh màng); hoặc nghi ngờ bệnh tăng dưỡng bào. Mẫu máu nên được lấy ngay sau khi bắt đầu điều trị cấp cứu và mẫu thứ hai lấy sau 1-2 giờ kể từ khi khởi phát triệu chứng. Tryptase ban đầu được đo ít nhất 24 giờ sau khi triệu chứng đã hoàn toàn hồi phục. Nồng độ tryptase có thể tăng kéo dài đến 12 giờ trong phản vệ do thuốc và do ong đốt. Tuy nhiên, tăng tryptase cũng gặp trong bệnh tăng dưỡng bào hệ thống và bệnh alpha tryptasemia di truyền. Bệnh nhân có nồng độ tryptase ban đầu >8 ng/mL nên được đánh giá về khả năng mắc alpha-tryptasemia di truyền hoặc bệnh dưỡng bào dòng tủy tùy theo phòng xét nghiệm. Ở trẻ bị phản vệ do thực phẩm, nồng độ tryptase huyết thanh hiếm khi tăng. Mức độ tăng nồng độ tryptase liên quan đến mức độ tụt huyết áp. Quan trọng là nồng độ tryptase bình thường không loại trừ chẩn đoán phản vệ.
Các xét nghiệm khác cần cân nhắc bao gồm acid 5-hydroxyindoleacetic niệu, methylhistamine niệu, chromogranin A, polypeptid vận mạch-ruột, kháng thể oligosaccharide alpha-gal (đối với quá mẫn với thịt đỏ ở bệnh nhân có tiền sử bị ve cắn), và catecholamine.

Thử nghiệm thực phẩm được chỉ định khi tiền sử cho thấy phản vệ đe dọa tính mạng mà không xác định được dị nguyên dựa vào tiền sử và xét nghiệm, hoặc khi nghi ngờ bệnh nhân đã hết nhạy cảm với thực phẩm. Thử nghiệm vận động có thể được thực hiện nếu vận động được xem là yếu tố làm nặng thêm phản ứng.
Xét nghiệm nồng độ tryptase huyết thanh không đặc hiệu cho phản vệ, nhưng đôi khi hữu ích để hỗ trợ chẩn đoán lâm sàng. Nồng độ tryptase ban đầu nên được đo ở các bệnh nhân có tiền sử phản vệ nặng, tái phát hoặc vô căn; phản vệ do nọc độc côn trùng thuộc bộ cánh màng (Hymenoptera); phản vệ nặng do côn trùng đốt (không phải bộ cánh màng); hoặc nghi ngờ bệnh tăng dưỡng bào. Mẫu máu nên được lấy ngay sau khi bắt đầu điều trị cấp cứu và mẫu thứ hai lấy sau 1-2 giờ kể từ khi khởi phát triệu chứng. Tryptase ban đầu được đo ít nhất 24 giờ sau khi triệu chứng đã hoàn toàn hồi phục. Nồng độ tryptase có thể tăng kéo dài đến 12 giờ trong phản vệ do thuốc và do ong đốt. Tuy nhiên, tăng tryptase cũng gặp trong bệnh tăng dưỡng bào hệ thống và bệnh alpha tryptasemia di truyền. Bệnh nhân có nồng độ tryptase ban đầu >8 ng/mL nên được đánh giá về khả năng mắc alpha-tryptasemia di truyền hoặc bệnh dưỡng bào dòng tủy tùy theo phòng xét nghiệm. Ở trẻ bị phản vệ do thực phẩm, nồng độ tryptase huyết thanh hiếm khi tăng. Mức độ tăng nồng độ tryptase liên quan đến mức độ tụt huyết áp. Quan trọng là nồng độ tryptase bình thường không loại trừ chẩn đoán phản vệ.
Các xét nghiệm khác cần cân nhắc bao gồm acid 5-hydroxyindoleacetic niệu, methylhistamine niệu, chromogranin A, polypeptid vận mạch-ruột, kháng thể oligosaccharide alpha-gal (đối với quá mẫn với thịt đỏ ở bệnh nhân có tiền sử bị ve cắn), và catecholamine.