Viêm gan B Công cụ chẩn đoán

Cập nhật: 21 January 2025

Nội dung của trang này:

Nội dung của trang này:

Xét nghiệm và hỗ trợ chẩn đoán

Viêm gan B thường đặc trưng bởi sự hiện diện của kháng nguyên bề mặt viêm gan B (HBsAg) cho thấy khả năng lây nhiễm. Anti-HBs được sản xuất sau khi tình trạng nhiễm đã được xử lý và là dấu hiệu kháng thể virus viêm gan B duy nhất xuất hiện sau khi tiêm chủng. Sự tồn tại của HBsAg trong ít nhất 6 tháng cho thấy tình trạng nhiễm mạn tính.

Kháng thể lõi viêm gan B (anti-HBc) là kháng thể đầu tiên xuất hiện trong huyết thanh và là dấu hiệu của miễn dịch tự nhiên. Nó cho thấy phản ứng miễn dịch chống lại virus viêm gan B trong các tế bào gan và là dấu hiệu đặc hiệu của tình trạng nhiễm viêm gan B cấp tính. Sự hiện diện của anti-HBc IgM có thể chẩn đoán nhiễm virus viêm gan B cấp tính nhưng cũng có thể xảy ra trong quá trình bùng phát viêm gan B mạn tính. Kháng nguyên e của viêm gan B (HBeAg) là dấu hiệu đang hoạt động nhân lên của virus. Nó có thể âm tính tại thời điểm bệnh nhân được đánh giá viêm gan B cấp tính do sự nhân lên của virus có thể đã dừng lại. Xét nghiệm HBV DNA để phát hiện virus viêm gan B và hỗ trợ đánh giá hiệu quả điều trị bằng thuốc kháng virus.

Các dấu ấn sinh học mới của nhiễm virus viêm gan B bao gồm cccDNA của virus, kháng nguyên liên quan đến lõi viêm gan B (HBcrAG) và RNA virus viêm gan B lưu hành. CccDNA của virus là gen quan trọng gây ra tình trạng nhiễm trùng dai dẳng và đã được chứng minh là vẫn tồn tại trong gan của bệnh nhân bị nhiễm ngay cả sau điều trị dài hạn với liệu pháp tương tự nucleos(t)ide và thậm chí sau khi mất HBsAg và chuyển đổi huyết thanh. Nó được sử dụng trong các thử nghiệm lâm sàng đánh giá các khái niệm điều trị nhiễm virus viêm gan B. Nồng độ HBsAg định lượng cao nhất ở những người có HBeAg (+). Nồng độ HBsAg định lượng thấp (<1.000 IU/mL) ở những người có HBeAg (-) kèm theo nồng độ HBV DNA <2.000 IU/mL và aminotransferase huyết thanh bình thường cho thấy kết quả được cải thiện.

HBcrAG bao gồm một số kháng nguyên được biểu hiện từ gen tiền lõi hoặc gen lõi và việc định lượng có thể cung cấp thêm thông tin về hoạt động của nhiễm virus viêm gan B bên cạnh định lượng HBsAg. Nó cũng có thể hữu ích trong việc xác định giai đoạn nhiễm virus viêm gan B mạn tính, đặc biệt là ở những bệnh nhân có HBe âm tính, cũng như dự đoán nguy cơ dài hạn đối với HCC.

Có mười kiểu gen virus viêm gan B (A-J) đóng vai trò trong sự phát triển của bệnh gan và đáp ứng với điều trị bằng interferon. Tuy nhiên, nó không được khuyến cáo để xét nghiệm thường quy hoặc theo dõi bệnh nhân viêm gan B mạn tính.

Tùy thuộc vào các dịch vụ y tế địa phương, những người sinh ra ở các vùng dịch tễ lưu hành cao, nam quan hệ tình dục đồng giới (MSM), người sử dụng ma túy đường tĩnh mạch, bệnh nhân chạy thận nhân tạo, người nhiễm HIV, phụ nữ mang thai và các thành viên gia đình, thành viên hộ gia đình và những người quan hệ tình dục với người nhiễm virus viêm gan B, người hiến máu hoặc hiến tạng, nhân viên y tế và bệnh nhân cần hóa trị nên được xét nghiệm nhiễm virus viêm gan B mạn tính.

Những người có huyết thanh âm tính nên được tiêm vaccine phòng ngừa virus viêm gan B. Nếu bệnh nhân chỉ có kết quả xét nghiệm anti-HBc dương tính, bệnh nhân có thể đã từng bị nhiễm virus viêm gan B đã khỏi hoặc xét nghiệm dương tính giả, và có thể tiêm vaccine nếu bệnh nhân đến từ vùng dịch tễ lưu hành. Bệnh nhân có HBsAg dương tính nên được đánh giá để phát hiện sự tiến triển của bệnh gan và nhu cầu điều trị bằng thuốc kháng virus. Bệnh nhân có kết quả xét nghiệm anti-HBs dương tính đã phát triển khả năng miễn dịch tự nhiên và không cần tiêm vaccine.

Bệnh nhân bị viêm gan B mạn tính cũng nên được xét nghiệm đồng nhiễm với virus viêm gan C, virus viêm gan D và HIV nếu họ có nguy cơ mắc các bệnh nhiễm trùng này.

Hepatitis B_DiagnosisHepatitis B_Diagnosis


Xét nghiệm để loại trừ viêm gan do virus khác*

Viêm gan virus D (HDV) được xác nhận bằng kháng thể immunoglobulin G (IgG) và immunoglobulin M (IgM) dương tính với anti-HDV, tiếp theo là xét nghiệm HDV RNA. Viêm gan D xảy ra như một bệnh đồng nhiễm với viêm gan B, do đó, những bệnh nhân có HBsAg (+) với các triệu chứng nghiêm trọng hoặc đợt cấp nên được xét nghiệm nhiễm virus viêm gan D. Kiểu gen virus viêm gan D nên được xác định, nếu có thể, ở tất cả những người bị nhiễm virus viêm gan D trước khi điều trị. Các kiểu gen chiếm ưu thế trên toàn thế giới là kiểu gen 1 ở Bắc Mỹ, châu Âu, Trung Đông và Bắc Phi; kiểu gen 2 và 4 ở Đông Á; kiểu gen 3 ở lưu vực sông Amazon ở Nam Mỹ; và kiểu gen 5, 6, 7 và 8 ở Tây và Trung Phi.

Để xét nghiệm virus viêm gan A (HAV), nên thực hiện kháng thể IgM anti-HAV. Có thể cân nhắc xét nghiệm khuếch đại acid nucleic (NAAT) đối với HAV RNA. Để xét nghiệm virus viêm gan C (HCV), có thể cân nhắc xét nghiệm kháng thể anti-HCV, xét nghiệm HCV RNA hoặc kháng nguyên lõi HCV. Để xét nghiệm virus viêm gan E (HEV), có thể cân nhắc xét nghiệm IgM anti-HEV và IgG anti-HEV kết hợp với HEV RNA. Có thể cân nhắc xét nghiệm NAAT cho HEV RNA.

*Vui lòng xem sơ đồ quản lý bệnh Viêm gan A và EViêm gan C để biết thêm thông tin

Các xét nghiệm khác được khuyến nghị ở những bệnh nhân nghi ngờ mắc viêm gan virus

Xét nghiệm chức năng gan (LFT) như aspartate aminotransferase (AST) và ALT, bilirubin huyết thanh và phosphatase kiềm (ALP) là những xét nghiệm được khuyến nghị cho bệnh nhân nghi ngờ mắc viêm gan virus. Công thức máu toàn phần (CBC) với tiểu cầu, thời gian prothrombin (PT), tỷ lệ bình thường hóa quốc tế (INR) và xét nghiệm chức năng thận cũng có thể được thực hiện. Các xét nghiệm không xâm lấn như chỉ số tỷ lệ aminotransferase/tiểu cầu (APRI) hoặc fibrosis-4 (FIB-4) có thể được sử dụng để đánh giá mức độ xơ gan khi nguồn lực bị hạn chế trước khi bắt đầu điều trị HCV. APRI là xét nghiệm không xâm lấn được ưu tiên để đánh giá tình trạng xơ hóa đáng kể hoặc xơ gan ở người lớn. Đo độ đàn hồi thoáng qua (FibroScan®) có thể là một lựa chọn cho bệnh nhân có chống chỉ định sinh thiết gan. Xơ hóa đáng kể được định nghĩa là điểm APRI >0,5 hoặc giá trị độ đàn hồi thoáng qua >7,0 kPa. Trong khi xơ gan dựa trên các tiêu chuẩn lâm sàng (xơ gan mất bù được chứng minh bằng tăng áp lực tĩnh mạch cửa [ví dụ như cổ trướng, xuất huyết giãn tĩnh mạch, bệnh não gan], bệnh lý đông máu hoặc suy gan [vàng da]; các đặc điểm lâm sàng khác của bệnh gan tiến triển hoặc xơ gan bao gồm gan to, lách to, ngứa, mệt mỏi, đau khớp, ban đỏ lòng bàn tay hoặc phù nề) hoặc điểm APRI >1,0 hoặc giá trị đàn hồi thoáng qua >12,5 kPa.

Cuối cùng, khuyến cáo nên đo alpha-fetoprotein (AFP) để theo dõi định kỳ HCC và nội soi để tìm giãn tĩnh mạch ở những bệnh nhân bị xơ gan.

Chẩn đoán hình ảnh

Siêu âm gan giúp xác định HCC và cổ trướng dưới lâm sàng.