Content:
Xét nghiệm và hỗ trợ chẩn đoán
Nội dung của trang này:
Xét nghiệm và hỗ trợ chẩn đoán
Hình ảnh học
Nội dung của trang này:
Xét nghiệm và hỗ trợ chẩn đoán
Hình ảnh học
Xét nghiệm và hỗ trợ chẩn đoán
Nồng độ kháng nguyên đặc hiệu tuyến tiền liệt (PSA)
PSA là một loại serine protease giống kallikrein do các tế bào biểu mô tuyến tiền liệt sản xuất. Nó đặc hiệu cho cơ quan nhưng không đặc hiệu cho ung thư và do đó có thể tăng cao trong các tình trạng lành tính (ví dụ như phì đại tuyến tiền liệt lành tính, viêm tuyến tiền liệt). Nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt tăng lên khi nồng độ PSA tăng và có thể cần sinh thiết tuyến tiền liệt.
PSA cũng dự đoán sự lan tràn ra ngoài tuyến tiền liệt, xâm lấn túi tinh và di căn hạch bệnh lý. Kết quả ban đầu nên được lấy trước khi bắt đầu điều trị vì đây cũng là thước đo tốt về hiệu quả điều trị. Các thông số khác (nguồn gốc từ xét nghiệm kiểm tra PSA) bao gồm nồng độ PSA tự do, vận tốc PSA và mật độ PSA.
Prostate Cancer_Initial Assesment 2
Sinh thiết tuyến tiền liệt
Sinh thiết tuyến tiền liệt là phương pháp phổ biến nhất được sử dụng để chẩn đoán ung thư tuyến tiền liệt. Chỉ nên thực hiện nếu mức PSA và DRE gợi ý cao về ung thư tuyến tiền liệt.
Chỉ định sinh thiết tuyến tiền liệt bao gồm những bệnh nhân có nguy cơ cao bị ung thư tuyến tiền liệt và có nồng độ PSA từ 2,5-4 ng/mL, nồng độ PSA tăng >0,35 ng/mL trong vòng 1 năm so với mức ban đầu <4 ng/mL, nồng độ PSA tăng > 0,75 ng/mL trong vòng 1 năm so với mức ban đầu là 4-10 ng/mL, hoặc nồng độ PSA quá cao so với độ tuổi.
Sinh thiết tuyến tiền liệt bằng lõi kim dưới hướng dẫn của siêu âm qua ngả trực tràng (TRUS) được khuyến cáo cho nam giới có nồng độ PSA >4 ng/mL. Sinh thiết qua ngả tầng sinh môn được ưa chuộng hơn so với sinh thiết dưới hướng dẫn của TRUS do nguy cơ nhiễm trùng thấp hơn.
Khuyến cáo nên lấy tối thiểu 10-12 lõi kim trong quá trình thực hiện và nên thực hiện cùng với kháng sinh dự phòng. Đường tiếp cận theo ngả tầng sinh môn (sinh thiết bằng bản đồ tuyến tiền liệt 3D qua tầng sinh môn) hữu ích trong những trường hợp đặc biệt (ví dụ như đã cắt trực tràng).
Sinh thiết tuyến tiền liệt chẩn đoán xác định, có hoặc không có chụp cộng hưởng từ tuyến tiền liệt đa thông số (mpMRI), có thể được cân nhắc nếu đang xem xét giám sát tích cực cho những bệnh nhân có nguy cơ rất thấp và có hoặc không có phân tích phân tử ở những bệnh nhân nguy cơ thấp đến nguy cơ trung bình thuận lợi.
Chỉ định sinh thiết lại sau khi có kết quả âm tính trước đó bao gồm nồng độ PSA tăng liên tục và/hoặc kết quả DRE nghi ngờ, và kết quả mpMRI dương tính.
Vui lòng xem Khám trực tràng bằng ngón tay (DRE) trong phần Khám lâm sàng để biết thêm thông tin.
Các xét nghiệm dấu ấn sinh học khác
Các xét nghiệm dấu ấn sinh học này có liên quan đến chẩn đoán ung thư tuyến tiền liệt nhưng không được thực hiện thường quy. Các dấu ấn sinh học khác ngoài PSA được sử dụng cho ung thư tuyến tiền liệt bao gồm dấu ấn quá trình tự hủy bướu (như Bcl-2, Bax), chỉ số tăng sinh (như Ki67), đột biến/biểu hiện p53, p27, E-cadherin, DNA plody, p16.
Các xét nghiệm dấu ấn sinh học khác được Mạng lưới Ung thư quốc gia Hoa Kỳ (NCCN) khuyến cáo gồm phần trăm PSA tự do (%f PSA), chỉ số tình trạng tuyến tiền liệt (PHI), 4Kscore®, kháng nguyên ung thư tuyến tiền liệt 3 (PCA3), xét nghiệm ConfirmMDx và ExoDx Prostate (IntelliScore) (EPI).
Các xét nghiệm hiện đang được nghiên cứu bao gồm Mi-Prostate (MiPS) và SelectMDx. Sự gia tăng nồng độ phosphatase acid trong huyết thanh có thể cho thấy tiên lượng xấu ở những bệnh nhân mắc bệnh khu trú và lan tràn.
Xét nghiệm di truyền
Xét nghiệm dòng mầm
Xét nghiệm dòng mầm được khuyến cáo cho những bệnh nhân có tiền sử cá nhân mắc ung thư tuyến tiền liệt với bất kỳ đặc điểm nào sau đây:
Xét nghiệm này nên bao gồm MLH1, MSH2, MSH6, PMS2, BRCA2, BRCA1, ATM, PALB2 và CHEK2. Có thể cân nhắc xét nghiệm gen tiền ung thư bằng giải trình tự thế hệ mới (NGS) bao gồm các đột biến gen nêu trên ngoại trừ PALB2. Xét nghiệm dòng mầm cũng được khuyến cáo cho các nhóm nguy cơ rất thấp, thấp và trung bình nếu bệnh nhân có tiền sử gia đình mắc ung thư tuyến tiền liệt hoặc có mô học dạng trong ống hoặc dạng sàng. Cần tư vấn di truyền trước khi xét nghiệm dòng mầm.
Xét nghiệm phân tử
Xét nghiệm phân tử cung cấp phương pháp tiếp cận điều trị chính xác hoặc cá thể hóa hơn. Các xét nghiệm phân tử dựa trên khối bướu có sẵn bao gồm Decipher®, Oncotype Dx® Prostate, Prolaris® và ProMark®.
Sau đây là các xét nghiệm dòng tế bào sinh dưỡng được khuyến cáo cho các bệnh nhân sau:
Phân nhóm grade mô học
Hệ thống grade mô học mới được phát triển bởi Hiệp hội Quốc tế về Bệnh lý Tiết niệu (ISUP) phân loại theo điểm Gleason và do đó đưa ra các chiến lược điều trị tốt hơn.
Tài liệu tham khảo: Mạng lưới Ung thư Toàn diện Quốc gia: Hướng dẫn của NCCN: ung thư tuyến tiền liệt phiên bản 4. 2024. NCCN. Tháng 5 năm 2024.
PSA là một loại serine protease giống kallikrein do các tế bào biểu mô tuyến tiền liệt sản xuất. Nó đặc hiệu cho cơ quan nhưng không đặc hiệu cho ung thư và do đó có thể tăng cao trong các tình trạng lành tính (ví dụ như phì đại tuyến tiền liệt lành tính, viêm tuyến tiền liệt). Nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt tăng lên khi nồng độ PSA tăng và có thể cần sinh thiết tuyến tiền liệt.
PSA cũng dự đoán sự lan tràn ra ngoài tuyến tiền liệt, xâm lấn túi tinh và di căn hạch bệnh lý. Kết quả ban đầu nên được lấy trước khi bắt đầu điều trị vì đây cũng là thước đo tốt về hiệu quả điều trị. Các thông số khác (nguồn gốc từ xét nghiệm kiểm tra PSA) bao gồm nồng độ PSA tự do, vận tốc PSA và mật độ PSA.

Sinh thiết tuyến tiền liệt
Sinh thiết tuyến tiền liệt là phương pháp phổ biến nhất được sử dụng để chẩn đoán ung thư tuyến tiền liệt. Chỉ nên thực hiện nếu mức PSA và DRE gợi ý cao về ung thư tuyến tiền liệt.
Chỉ định sinh thiết tuyến tiền liệt bao gồm những bệnh nhân có nguy cơ cao bị ung thư tuyến tiền liệt và có nồng độ PSA từ 2,5-4 ng/mL, nồng độ PSA tăng >0,35 ng/mL trong vòng 1 năm so với mức ban đầu <4 ng/mL, nồng độ PSA tăng > 0,75 ng/mL trong vòng 1 năm so với mức ban đầu là 4-10 ng/mL, hoặc nồng độ PSA quá cao so với độ tuổi.
Sinh thiết tuyến tiền liệt bằng lõi kim dưới hướng dẫn của siêu âm qua ngả trực tràng (TRUS) được khuyến cáo cho nam giới có nồng độ PSA >4 ng/mL. Sinh thiết qua ngả tầng sinh môn được ưa chuộng hơn so với sinh thiết dưới hướng dẫn của TRUS do nguy cơ nhiễm trùng thấp hơn.
Khuyến cáo nên lấy tối thiểu 10-12 lõi kim trong quá trình thực hiện và nên thực hiện cùng với kháng sinh dự phòng. Đường tiếp cận theo ngả tầng sinh môn (sinh thiết bằng bản đồ tuyến tiền liệt 3D qua tầng sinh môn) hữu ích trong những trường hợp đặc biệt (ví dụ như đã cắt trực tràng).
Sinh thiết tuyến tiền liệt chẩn đoán xác định, có hoặc không có chụp cộng hưởng từ tuyến tiền liệt đa thông số (mpMRI), có thể được cân nhắc nếu đang xem xét giám sát tích cực cho những bệnh nhân có nguy cơ rất thấp và có hoặc không có phân tích phân tử ở những bệnh nhân nguy cơ thấp đến nguy cơ trung bình thuận lợi.
Chỉ định sinh thiết lại sau khi có kết quả âm tính trước đó bao gồm nồng độ PSA tăng liên tục và/hoặc kết quả DRE nghi ngờ, và kết quả mpMRI dương tính.
Vui lòng xem Khám trực tràng bằng ngón tay (DRE) trong phần Khám lâm sàng để biết thêm thông tin.
Các xét nghiệm dấu ấn sinh học khác
Các xét nghiệm dấu ấn sinh học này có liên quan đến chẩn đoán ung thư tuyến tiền liệt nhưng không được thực hiện thường quy. Các dấu ấn sinh học khác ngoài PSA được sử dụng cho ung thư tuyến tiền liệt bao gồm dấu ấn quá trình tự hủy bướu (như Bcl-2, Bax), chỉ số tăng sinh (như Ki67), đột biến/biểu hiện p53, p27, E-cadherin, DNA plody, p16.
Các xét nghiệm dấu ấn sinh học khác được Mạng lưới Ung thư quốc gia Hoa Kỳ (NCCN) khuyến cáo gồm phần trăm PSA tự do (%f PSA), chỉ số tình trạng tuyến tiền liệt (PHI), 4Kscore®, kháng nguyên ung thư tuyến tiền liệt 3 (PCA3), xét nghiệm ConfirmMDx và ExoDx Prostate (IntelliScore) (EPI).
Các xét nghiệm hiện đang được nghiên cứu bao gồm Mi-Prostate (MiPS) và SelectMDx. Sự gia tăng nồng độ phosphatase acid trong huyết thanh có thể cho thấy tiên lượng xấu ở những bệnh nhân mắc bệnh khu trú và lan tràn.
Xét nghiệm di truyền
Xét nghiệm dòng mầm
Xét nghiệm dòng mầm được khuyến cáo cho những bệnh nhân có tiền sử cá nhân mắc ung thư tuyến tiền liệt với bất kỳ đặc điểm nào sau đây:
- Ung thư tuyến tiền liệt di căn, tại vùng (hạch dương tính), bệnh tại chỗ nguy cơ rất cao hoặc cao được chẩn đoán ở bất kỳ lứa tuổi nào
- Tiền sử gia đình hoặc tổ tiên (không bao gồm những người thân mắc bệnh Nhóm 1 tại chỗ về mặt lâm sàng):
- ≥1 người thân thế hệ một, hai hoặc ba mắc ung thư vú, ung thư đại tràng hoặc ung thư nội mạc tử cung ở độ tuổi ≤50, hoặc ung thư vú nam, ung thư buồng trứng, ung thư tuyến tụy ngoại tiết, ung thư tuyến tiền liệt di căn, tại chỗ, nguy cơ rất cao, nguy cơ cao ở bất kỳ lứa tuổi nào
- ≥1 người thân thế hệ một mắc ung thư tuyến tiền liệt ở độ tuổi ≤60
- ≥2 người thân thế hệ một, hai hoặc ba mắc ung thư vú hoặc ung thư tuyến tiền liệt ở bất kỳ lứa tuổi nào
- ≥3 người thân thế hệ một hoặc hai mắc ung thư liên quan đến hội chứng Lynch, đặc biệt nếu được chẩn đoán lúc <50 tuổi
- Tiền sử gia đình có đột biến nguy cơ ung thư gia đình (BRCA1, BRCA2, ATM, PALB2, CHEK2, MLH1, MSH2, MSH6, PMS2, EPCAM)
- Tổ tiên là người Do Thái Ashkenazi
- Tiền sử cá nhân mắc ung thư vú
Xét nghiệm này nên bao gồm MLH1, MSH2, MSH6, PMS2, BRCA2, BRCA1, ATM, PALB2 và CHEK2. Có thể cân nhắc xét nghiệm gen tiền ung thư bằng giải trình tự thế hệ mới (NGS) bao gồm các đột biến gen nêu trên ngoại trừ PALB2. Xét nghiệm dòng mầm cũng được khuyến cáo cho các nhóm nguy cơ rất thấp, thấp và trung bình nếu bệnh nhân có tiền sử gia đình mắc ung thư tuyến tiền liệt hoặc có mô học dạng trong ống hoặc dạng sàng. Cần tư vấn di truyền trước khi xét nghiệm dòng mầm.
Xét nghiệm phân tử
Xét nghiệm phân tử cung cấp phương pháp tiếp cận điều trị chính xác hoặc cá thể hóa hơn. Các xét nghiệm phân tử dựa trên khối bướu có sẵn bao gồm Decipher®, Oncotype Dx® Prostate, Prolaris® và ProMark®.
Sau đây là các xét nghiệm dòng tế bào sinh dưỡng được khuyến cáo cho các bệnh nhân sau:
- Ung thư tuyến tiền liệt tại chỗ hoặc di căn: Xét nghiệm khối bướu để tìm đột biến gen tái tổ hợp sửa chữa tương đồng dòng sinh dưỡng (HRRm) bao gồm MLH1, MSH2, MSH6, PMS2, BRCA2, BRCA1, ATM, CHEK2 và mất ổn định vi vệ tinh cao (MSI-H) hoặc sửa chữa ghép cặp không đầy đủ (dMMR) (để kiểm tra hội chứng Lynch).
- Xét nghiệm gen tiền ung thư bằng giải trình tự thế hệ mới (NGS) bao gồm BRCA2, BRCA1, ATM, CHEK2, PALB2, MLH1, MSH2, MSH6, PMS2 nên được cân nhắc
- Ung thư tuyến tiền liệt nguy cơ thấp và nguy cơ trung bình thuận lợi với ước lượng thời gian sống ≥10 năm: Decipher®, Decipher PORTOS, Oncotype Dx®, Prolaris® và ProMark®
- Ung thư tuyến tiền liệt nguy cơ trung bình không thuận lợi và nguy cơ cao với ước lượng thời gian sống ≥10 năm: Xét nghiệm phân tử Decipher® và Prolaris® dựa trên khối bướu.
- PSA bền vững hoặc tái phát sau phẫu thuật cắt tuyến tiền liệt tận gốc: Xét nghiệm phân tử Decipher® được sử dụng trong quá trình tư vấn để phân tầng nguy cơ.
Phân nhóm grade mô học
Hệ thống grade mô học mới được phát triển bởi Hiệp hội Quốc tế về Bệnh lý Tiết niệu (ISUP) phân loại theo điểm Gleason và do đó đưa ra các chiến lược điều trị tốt hơn.
Phân nhóm grade | Điểm Gleason | Kiểu điểm Gleason | Nhóm nguy cơ | Mô tả |
1 | ≤6 | ≤3 + 3 | Rất thấp | Chỉ có các tuyến riêng lẻ, riêng biệt, được hình thành rõ |
2 | 7 | 3 + 4 | Trung bình | Chủ yếu là các tuyến hình thành rõ với thành phần ít hơn là các tuyến hình thành không rõ /dung hợp/ dạng sàng/ có cấu trúc cầu thận |
3 | 7 | 4 + 3 | Trung bình | Chủ yếu là các tuyến hình thành không rõ/ dung hợp/có cấu trúc cầu thận với thành phần ít hơn là các tuyến hình thành rõ |
4 | 8 | 4 + 4, 3 + 5, 5 + 3 | Cao | Chỉ có tuyến hình thành không rõ /dung hợp/ dạng sàng/ có cấu trúc cầu thận hoặc Chủ yếu là các tuyến hình thành rõ và thành phần ít hơn không có tuyến hoặc chủ yếu không có tuyến thiếu với thành phần ít hơn là tuyến hình thành rõ |
5 | 9 hoặc 10 | 4 + 5, 5 + 4, 5 + 5 | Rất cao | Không có sự hình thành tuyến kèm hoặc không kèm tuyến hình thành không rõ/dung hợp/dạng sàng |
Tài liệu tham khảo: Mạng lưới Ung thư Toàn diện Quốc gia: Hướng dẫn của NCCN: ung thư tuyến tiền liệt phiên bản 4. 2024. NCCN. Tháng 5 năm 2024.
Hình ảnh học
Các thủ thuật hình ảnh học nên dựa trên độ tuổi, nguy cơ, kết quả PSA, điểm Gleason và tình trạng sức khỏe của bệnh nhân. Đánh giá hình ảnh vùng chậu và/hoặc bụng được khuyến cáo cho những bệnh nhân có nguy cơ cao đến rất cao và cho những bệnh nhân có nguy cơ trung bình với khả năng >10% xâm nhiễm hạch vùng chậu trên biểu đồ. Hình ảnh học có thể được cân nhắc ở những bệnh nhân có triệu chứng có nguy cơ rất thấp, thấp và trung bình. Chụp hình xương nên được thực hiện cho bất kỳ bệnh nhân nào có các triệu chứng phù hợp với di căn xương.
Chụp X-quang thông thường
X-quang thông thường có thể được sử dụng để đánh giá sự hiện diện của các bệnh lý về xương ở những bệnh nhân có triệu chứng.
Siêu âm
Siêu âm qua trực tràng có thể được sử dụng để đánh giá tuyến tiền liệt nếu nồng độ PSA và kết quả DRE không kết luận được. Siêu âm cũng được sử dụng như một hướng dẫn trong quá trình sinh thiết tuyến tiền liệt qua trực tràng. Siêu âm cũng được xem xét ở những bệnh nhân nghi ngờ tái phát sau phẫu thuật.
Chụp cắt lớp vi tính (CT)
CT có thể được sử dụng để đánh giá sự hiện diện của bệnh lý xương, bệnh ngoài vỏ bao, bệnh di căn hạch và/hoặc bệnh di căn tạng. Có thể sử dụng để đánh giá vùng chậu và/hoặc bụng như một phần của đánh giá ban đầu và để theo dõi tái phát hoặc tiến triển.
Có thể sử dụng CT để xếp giai đoạn hạch bạch huyết ở những bệnh nhân không có triệu chứng nguy cơ trung bình đến cao (nồng độ PSA >10 ng/mL, điểm Gleason >8 hoặc giai đoạn lâm sàng >T3).
MRI
MRI đa tham số bằng hình ảnh khuyếch tán hoặc chụp cộng hưởng từ phổ H1 có thể được thực hiện để đánh giá xem có cần sinh thiết lại tuyến tiền liệt ở những bệnh nhân có kết quả âm tính trong TRUS hay không. MRI phát hiện các khối bướu lớn, kém biệt hóa và sự lan rộng ngoài vỏ bao, được sử dụng để xếp giai đoạn hạch bạch huyết vùng chậu và phát hiện di căn xương với độ nhạy và độ đặc hiệu lên tới 98-100%.
Có thể sử dụng MRI để đánh giá vùng chậu và/hoặc bụng như một phần của đánh giá ban đầu và để theo dõi tái phát hoặc tiến triển. mpMRI được ưa chuộng hơn CT để xếp giai đoạn ổ bụng hoặc vùng chậu. Kết quả dương tính có thể gợi ý sinh thiết tuyến tiền liệt lại.
Độ nhạy để phát hiện bướu >2 cm3: 67-75% đối với Gleason <6; 97% đối với Gleason 7; và 100% đối với Gleason >8.
Xạ hình xương
Xạ hình xương là phương pháp chiếu xạ xương với technetium-99m-MPD (99mTc-MDP) được dùng để đánh giá di căn xương. Có thể thực hiện đối với những bệnh nhân có triệu chứng với kết quả PSA >10 ng/mL, điểm Gleason >8, ước lượng thời gian sống dài, giai đoạn T cao và những bệnh nhân có thời gian nhân đôi PSA (PSADT) ngắn. Có thể cân nhắc thực hiện ở những bệnh nhân có PSA tăng hoặc DRE dương tính sau xạ trị, những người này có thể được hưởng lợi thêm từ liệu pháp tại chỗ hoặc toàn thân. Khuyến cáo thực hiện đối với những bệnh nhân có nguy cơ cao đến rất cao và những bệnh nhân có nguy cơ trung bình với T2, Gleason 7 điểm và nồng độ PSA từ 10-20 ng/mL và/hoặc ước lượng thời gian sống >5 năm.
Chụp cắt lớp phát xạ positron (PET) hoặc CT và PET/MRI
F-18 natri floride, C-11 choline và F-18 fluciclovine PET/CT hoặc PET/MRI với kháng nguyên màng đặc hiệu tuyến tiền liệt (PSMA) F-18 piflufolastat, gali-68 PSMA-11 (68Ga-PSMA-11), F-18 flotufolastat PSMA, F-18 natri floride, C-11 choline hoặc F-18 fluciclovine có thể được cân nhắc sau khi chụp xạ hình xương để đánh giá thêm các xương có kết quả chụp xạ hình xương không rõ ràng, để phát hiện bệnh tái phát về mặt sinh hóa và kiểm tra bệnh tiến triển. Chụp PET/CT với kháng nguyên màng đặc hiệu tuyến tiền liệt gali-68 (68Ga-PSMA) cho độ nhạy cao với chẩn đoán mô bệnh học và có độ nhạy, độ đặc hiệu tốt hơn so với chụp CT hoặc xạ hình xương để phát hiện tái phát ở mức PSA thấp hơn. Ngoài ra, PET có thể được sử dụng để xếp giai đoạn ung thư tuyến tiền liệt. Cân nhắc chụp PET/CT hoặc PET/MRI C-11 choline hoặc F-18 fluciclovine để đánh giá mô mềm và xương nếu các xét nghiệm khác không cho thấy bất kỳ bằng chứng nào về di căn.
Chụp X-quang thông thường
X-quang thông thường có thể được sử dụng để đánh giá sự hiện diện của các bệnh lý về xương ở những bệnh nhân có triệu chứng.
Siêu âm
Siêu âm qua trực tràng có thể được sử dụng để đánh giá tuyến tiền liệt nếu nồng độ PSA và kết quả DRE không kết luận được. Siêu âm cũng được sử dụng như một hướng dẫn trong quá trình sinh thiết tuyến tiền liệt qua trực tràng. Siêu âm cũng được xem xét ở những bệnh nhân nghi ngờ tái phát sau phẫu thuật.
Chụp cắt lớp vi tính (CT)
CT có thể được sử dụng để đánh giá sự hiện diện của bệnh lý xương, bệnh ngoài vỏ bao, bệnh di căn hạch và/hoặc bệnh di căn tạng. Có thể sử dụng để đánh giá vùng chậu và/hoặc bụng như một phần của đánh giá ban đầu và để theo dõi tái phát hoặc tiến triển.
Có thể sử dụng CT để xếp giai đoạn hạch bạch huyết ở những bệnh nhân không có triệu chứng nguy cơ trung bình đến cao (nồng độ PSA >10 ng/mL, điểm Gleason >8 hoặc giai đoạn lâm sàng >T3).
MRI
MRI đa tham số bằng hình ảnh khuyếch tán hoặc chụp cộng hưởng từ phổ H1 có thể được thực hiện để đánh giá xem có cần sinh thiết lại tuyến tiền liệt ở những bệnh nhân có kết quả âm tính trong TRUS hay không. MRI phát hiện các khối bướu lớn, kém biệt hóa và sự lan rộng ngoài vỏ bao, được sử dụng để xếp giai đoạn hạch bạch huyết vùng chậu và phát hiện di căn xương với độ nhạy và độ đặc hiệu lên tới 98-100%.
Có thể sử dụng MRI để đánh giá vùng chậu và/hoặc bụng như một phần của đánh giá ban đầu và để theo dõi tái phát hoặc tiến triển. mpMRI được ưa chuộng hơn CT để xếp giai đoạn ổ bụng hoặc vùng chậu. Kết quả dương tính có thể gợi ý sinh thiết tuyến tiền liệt lại.
Độ nhạy để phát hiện bướu >2 cm3: 67-75% đối với Gleason <6; 97% đối với Gleason 7; và 100% đối với Gleason >8.
Xạ hình xương
Xạ hình xương là phương pháp chiếu xạ xương với technetium-99m-MPD (99mTc-MDP) được dùng để đánh giá di căn xương. Có thể thực hiện đối với những bệnh nhân có triệu chứng với kết quả PSA >10 ng/mL, điểm Gleason >8, ước lượng thời gian sống dài, giai đoạn T cao và những bệnh nhân có thời gian nhân đôi PSA (PSADT) ngắn. Có thể cân nhắc thực hiện ở những bệnh nhân có PSA tăng hoặc DRE dương tính sau xạ trị, những người này có thể được hưởng lợi thêm từ liệu pháp tại chỗ hoặc toàn thân. Khuyến cáo thực hiện đối với những bệnh nhân có nguy cơ cao đến rất cao và những bệnh nhân có nguy cơ trung bình với T2, Gleason 7 điểm và nồng độ PSA từ 10-20 ng/mL và/hoặc ước lượng thời gian sống >5 năm.
Chụp cắt lớp phát xạ positron (PET) hoặc CT và PET/MRI
F-18 natri floride, C-11 choline và F-18 fluciclovine PET/CT hoặc PET/MRI với kháng nguyên màng đặc hiệu tuyến tiền liệt (PSMA) F-18 piflufolastat, gali-68 PSMA-11 (68Ga-PSMA-11), F-18 flotufolastat PSMA, F-18 natri floride, C-11 choline hoặc F-18 fluciclovine có thể được cân nhắc sau khi chụp xạ hình xương để đánh giá thêm các xương có kết quả chụp xạ hình xương không rõ ràng, để phát hiện bệnh tái phát về mặt sinh hóa và kiểm tra bệnh tiến triển. Chụp PET/CT với kháng nguyên màng đặc hiệu tuyến tiền liệt gali-68 (68Ga-PSMA) cho độ nhạy cao với chẩn đoán mô bệnh học và có độ nhạy, độ đặc hiệu tốt hơn so với chụp CT hoặc xạ hình xương để phát hiện tái phát ở mức PSA thấp hơn. Ngoài ra, PET có thể được sử dụng để xếp giai đoạn ung thư tuyến tiền liệt. Cân nhắc chụp PET/CT hoặc PET/MRI C-11 choline hoặc F-18 fluciclovine để đánh giá mô mềm và xương nếu các xét nghiệm khác không cho thấy bất kỳ bằng chứng nào về di căn.