Ung thư tuyến tiền liệt Tổng quan về bệnh

Cập nhật: 09 February 2025

Nội dung của trang này:

Nội dung của trang này:

Giới thiệu

Ung thư tuyến tiền liệt là loại ung thư phổ biến thứ hai ở nam giới và là một trong những loại ung thư phổ biến nhất ở nam giới trên 50 tuổi.

Dịch tễ học

Ung thư tuyến tiền liệt là một trong những loại ung thư phổ biến nhất trên thế giới, chiếm tới 1.467.854 ca mắc mới chỉ trong năm 2022. Đây là loại ung thư phổ biến thứ tư trên thế giới. Trong số các châu lục, châu Âu có tỷ lệ mắc cao nhất, với 473.011 ca mới mắc vào năm 2022. Tiếp theo là châu Á với 386.424 ca, Bắc Mỹ với 255.782 ca, châu Mỹ Latinh và Caribe với 225.985 ca, châu Phi với 103.050 ca và châu Đại Dương với 23.602 ca. Tỷ lệ mắc ung thư tuyến tiền liệt có mối tương quan chặt chẽ với tuổi tác và sẽ ảnh hưởng không cân xứng đến nam giới lớn tuổi. Tỷ lệ mắc bệnh tăng nhanh theo tuổi tác, với tỷ lệ cao nhất được thấy ở nam giới từ 70-80 tuổi. Về tử vong, đây là nguyên nhân gây tử vong do ung thư phổ biến thứ tám trên toàn thế giới, chiếm 397.430 ca tử vong vào năm 2022. Đây là một trong những nguyên nhân gây tử vong do ung thư phổ biến nhất ở nam giới.  

Ở châu Á, ung thư tuyến tiền liệt là một trong những loại ung thư được chẩn đoán nhiều nhất, dẫn đến 120.485 ca tử vong vào năm 2022, cao nhất trong số các châu lục. Ung thư tuyến tiền liệt có tỷ lệ mắc bệnh cao thứ ba ở Philippines, chiếm 9.764 ca mới vào năm 2022 (ung thư phổi và ung thư đại trực tràng phổ biến hơn). Cùng năm, ung thư tuyến tiền liệt đã gây ra tới 3.850 ca tử vong ở Philippines. 

Sinh lý bệnh

Tuyến tiền liệt là cấu trúc tuyến sinh dục nam nằm ở xương chậu tại gốc dương vật. Ung thư tuyến tiền liệt phát sinh từ biểu mô, thường ở phần tuyến ngoại vi của tuyến tiền liệt. Chìa khóa cho cơ chế sinh bệnh của ung thư tuyến tiền liệt là sự phụ thuộc nặng nề vào androgen, đó là lý do tại sao liệu pháp hormone lại hiệu quả đến vậy. Tuy nhiên, bướu kháng cắt tinh hoàn được cho là có đột biến cải thiện hoạt động chức năng của thụ thể androgen, đôi khi thậm chí tạo ra androgen nội bào. Biến đổi ác tính liên quan được gọi là tân sinh biểu mô tuyến tiền liệt (PIN) và là tiền thân trong các tế bào đáy ngoại vi. Sự tích tụ của các biến đổi di truyền (ví dụ con đường tắt không qua thụ thể androgen, bất hoạt gen ức chế bướu, v.v.) được suy đoán là tạo điều kiện cho quá trình biến đổi tế bào từ biểu mô bình thường thành PIN, tân sinh xâm lấn và sau đó là kháng cắt tinh hoàn. 

Yếu tố nguy cơ

Nguy cơ mắc ung thư tuyến tiền liệt tăng theo tuổi, đặc biệt là ở nam giới >50 tuổi. Tiền sử gia đình có người thân thế hệ một hoặc thế hệ hai được chẩn đoán mắc ung thư tuyến tiền liệt di căn, ung thư buồng trứng, ung thư vú (nữ ≤45 tuổi), ung thư đại trực tràng, ung thư nội mạc tử cung (≤50 tuổi) hoặc ung thư tuyến tụy và những người có ≥2 người thân thế hệ một hoặc thế hệ hai được chẩn đoán mắc ung thư tuyến tiền liệt, ung thư vú, ung thư đại trực tràng hoặc ung thư nội mạc tử cung ở bất kỳ độ tuổi nào cũng có nguy cơ mắc bệnh.  

Các đột biến gen như gen ung thư vú 1 (BRCA1), gen ung thư vú 2 (BRCA2), đột biến mất điều hòa giãn mao mạch (ATM), điểm kiểm soát kinase 2 (CHEK2), homeobox B13 (HOXB13), phân tử kết dính tế bào biểu mô (EPCAM), nibrin (NBN), protein bướu 53 (TP53), protein tương tác và ổn định BRCA2 (PALB2), khiếm khuyết gen sửa chữa bắt cặp sai DNA (mutS homolog 2 [MSH2], mutL homolog 1 [MLH1], hội chứng Lynch, mutS homolog 6 [MSH6], tăng phân ly trước giảm phân 2 [PMS2]) và yếu tố tăng trưởng giống insulin-1 (IGF-1) đều có liên quan đến sự phát triển của ung thư tuyến tiền liệt.  

Chủng tộc, đặc biệt là những người có tổ tiên là người châu Phi và người Do Thái Ashkenazi, và tiếp xúc với hóa chất (ví dụ như sản phẩm đốt cháy độc hại) cũng là những yếu tố nguy cơ gây ra bệnh. Các yếu tố rủi ro khác đang được nghiên cứu bao gồm tiền sử bệnh lý về viêm tuyến tiền liệt (ví dụ như viêm tuyến tiền liệt, bệnh lây truyền qua đường tình dục [STD], tăng sinh dạng viêm teo [PIN]) và thắt ống dẫn tinh.