Bệnh gan liên quan đến rượu Tổng quan về bệnh

Cập nhật: 04 July 2025

Nội dung của trang này:

Nội dung của trang này:

Giới thiệu

Bệnh gan liên quan đến rượu (ALD) là một phổ bệnh lâm sàng-mô học bao gồm gan nhiễm mỡ, viêm gan do rượu và xơ gan và các biến chứng

Dịch tễ

Có tới 2,4 tỷ người trên thế giới tiêu thụ rượu, trong đó có 1,5 tỷ nam giới và 900 triệu nữ giới. Ước tính có khoảng 400 triệu người, tương đương 7% dân số thế giới, mắc rối loạn sử dụng rượu (AUD), trong khi 209 triệu người phụ thuộc vào rượu trên thế giới (WHO). Đáng chú ý, AUD có xu hướng phổ biến hơn ở các quốc gia có thu nhập cao (Devar và Liang). Tỷ lệ hiện mắc AUD có sự khác biệt đáng kể theo giới tính, với nam giới bị ảnh hưởng nhiều hơn nữ giới (264 triệu nam giới so với 136 triệu nữ giới) (WHO). Do nhiều yếu tố khác nhau như rào cản trong tiếp cận dịch vụ y tế, môi trường nguy cơ và các yếu tố hành vi nguy cơ khác, tử vong và chấn thương do rượu gây ra ảnh hưởng không cân xứng nhiều nhất đến những người có địa vị kinh tế-xã hội thấp (WHO). Bệnh gan do rượu là nguyên nhân hàng đầu gây suy gan cấp và mạn tính, xơ gan và ung thư gan. Đây cũng là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến ghép gan. Điều đáng lưu ý là khoảng 20% tổng số người nghiện rượu mắc viêm gan do rượu. ALD chiếm khoảng 6% tổng số ca tử vong trên toàn cầu. Trong khi đó, xơ gan do rượu (AC) chiếm khoảng 10% số ca tử vong liên quan đến rượu trên toàn thế giới.

Trên toàn cầu, có đến 3 triệu người tử vong mỗi năm liên quan đến sử dụng rượu có hại, trong đó 13,5% số ca tử vong ở độ tuổi 20 đến 39 tuổi. Ở nam giới, các nguyên nhân chính gây tử vong liên quan đến rượu bao gồm bệnh lý tiêu hóa (439.000 ca tử vong), chấn thương ngoài ý muốn (427.000 ca tử vong) và ung thư ác tính (326.000 ca tử vong) (WHO). Trong khi đó, ở nữ giới, các nguyên nhân chính gây tử vong liên quan đến rượu là bệnh tim mạch (231.000 ca tử vong), bệnh lý tiêu hóa (139.000 ca tử vong) và chấn thương ngoài ý muốn (93.000 ca tử vong) (WHO). Đối với u ác tính, AC đã gia tăng đáng kể ở những bệnh nhân từ 25 đến 34 tuổi. Tại Hoa Kỳ, tỷ lệ tử vong liên quan đến ALD ước tính là 5,5 trên 100.000 dân với tỷ lệ mắc bệnh là 2% trong dân số chung.

Mặc dù lượng rượu tiêu thụ ở châu Á được ghi nhận là thấp hơn so với châu Âu, nơi có mức tiêu thụ cao nhất thế giới, nhưng tỷ lệ mắc bệnh ở các quốc gia như Ấn Độ, Nhật Bản và Trung Quốc vẫn cao và/hoặc đang gia tăng, có thể phản ánh sự thay đổi trong nền kinh tế và thu nhập trung bình của các quốc gia này (Liang và Niu). Tổng thể thì tỷ lệ mắc ALD ở châu Á được ghi nhận là 4,81%, với nam giới bị ảnh hưởng nhiều hơn nữ giới (Niu và Xu). Mặc dù chưa có dữ liệu về tỷ lệ mắc ALD trên toàn quốc tại Philippines, một báo cáo của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã ghi nhận 21,1 ca tử vong trên 100.000 nam giới do AC gây ra (Ornos).

Alcohol-Related Liver Disease_Disease BackgroundAlcohol-Related Liver Disease_Disease Background

Sinh lý bệnh

Bệnh gan liên quan đến rượu là hệ quả của sự tương tác phức tạp giữa các yếu tố hành vi, môi trường và di truyền. Tiêu thụ một lượng lớn rượu dẫn đến tích tụ mỡ trong gan bằng cách ảnh hưởng đến các cơ chế oxy hóa-khử trong gan thông qua sự can thiệp vào các yếu tố phiên mã điều hòa quá trình tổng hợp và oxy hóa acid béo, làm tăng tổng hợp acid béo và giảm quá trình oxy hóa acid béo. Sự thay đổi tính thấm của ruột dẫn đến tăng nội độc tố trong tĩnh mạch cửa, kích hoạt phản ứng miễn dịch bẩm sinh, gây viêm gan, tổn thương gan, chết tế bào theo chương trình và hoại tử, cũng như xơ hóa, từ đó kích hoạt các dòng thác phản ứng cytokine và stress oxy hóa, dẫn đến tổn thương gan.

Yếu tố nguy cơ

Các đồng yếu tố trong sự phát triển bệnh gan liên quan đến rượu (ALD)

Lượng rượu tiêu thụ (>30 g mỗi ngày), loại rượu và kiểu uống rượu (ví dụ: uống mỗi ngày, uống vô độ) là những yếu tố quan trọng cần xem xét trong bệnh gan do rượu (ALD). Nghiên cứu cho thấy rượu vang đỏ ít có khả năng liên quan đến xơ gan hơn so với các loại đồ uống có cồn khác. Các yếu tố di truyền như các biến thể gen PNPLA3, TM6SF2, MBOAT7, và HSD17B13 và tốc độ chuyển hóa rượu đóng vai trò trong sự hình thành ALD. Về giới tính, phụ nữ dễ mắc bệnh hơn nam giới. Thừa dinh dưỡng và béo phì là những yếu tố nguy cơ độc lập đã được chứng minh cho gan nhiễm mỡ và viêm gan nhiễm mỡ. Hút thuốc lá và suy dinh dưỡng cũng là những yếu tố quan trọng trong cơ chế bệnh sinh của ALD. Các bệnh lý đi kèm như viêm gan nhiễm mỡ do rối loạn chuyển hóa (MASH), bệnh gan nhiễm mỡ do rối loạn chuyển hóa (MASLD), viêm gan do virus và bệnh thừa sắt (hemochromatosis) cũng cần được cân nhắc. Đồng nhiễm viêm gan siêu vi B (HBV) làm tăng tốc độ tiến triển của ALD và có thể tăng nguy cơ tử vong. Trong khi đó, viêm gan siêu vi C (HCV) làm tăng nguy cơ diễn tiến thành xơ gan lên gấp 8 đến 10 lần và đẩy nhanh tiến triển của ALD.

Phân loại

Bệnh gan nhiễm mỡ (SLD)

Bệnh gan nhiễm mỡ là thuật ngữ chung, bao gồm các nguyên nhân khác nhau gây ra tình trạng gan nhiễm mỡ. Gan nhiễm mỡ hoặc gan nhiễm mỡ do rượu có thể hình thành sau 2 tuần ở khoảng 90% những người uống rượu với lượng >60 g mỗi ngày. Bệnh nhân SLD thường không có triệu chứng. Tuy nhiên gan có thể to ra mà không kèm theo vàng da hoặc các dấu hiệu của bệnh gan tiến triển. SLD có thể hồi phục nếu cai rượu trong vòng 4 đến 6 tuần, mặc dù một số trường hợp có thể tiến triển thành viêm gan nhiễm mỡ hoặc xơ hóa và xơ gan.

Viêm gan do rượu

Viêm gan do rượu đặc trưng bởi tình trạng vàng da tiến triển mới xuất hiện (có hoặc không có các dấu hiệu của xơ gan mất bù như bệnh não gan hoặc cổ trướng), thường đi kèm với sốt, mệt mỏi, sụt cân và suy dinh dưỡng.

Các mức độ chẩn đoán viêm gan do rượu bao gồm:
  • Có khả năng mắc bệnh (Possible): Chẩn đoán lâm sàng nhưng có các yếu tố gây nhiễu tiềm ẩn.
  • Rất có khả năng mắc bệnh (Probable): Chẩn đoán lâm sàng và không có yếu tố gây nhiễu.
  • Chắc chắn mắc bệnh (Definite): Chẩn đoán lâm sàng với các đặc điểm viêm gan do rượu (viêm gan nhiễm mỡ) được xác nhận qua mô bệnh học.
Xơ gan

Những bệnh nhân gan xơ hóa và lên đến >75% bệnh nhân viêm gan nhiễm mỡ có thể tiến triển thành xơ gan do rượu (ALD cirrhosis). Nguy cơ tiến triển thành ung thư biểu mô tế bào gan (HCC) cũng gia tăng đáng kể ở những bệnh nhân bị xơ gan do rượu.