Content:
Giới thiệu
Nội dung của trang này:
Giới thiệu
Dịch tễ học
Sinh lý bệnh
Nguyên nhân
Phân loại
Nội dung của trang này:
Giới thiệu
Dịch tễ học
Sinh lý bệnh
Nguyên nhân
Phân loại
Giới thiệu
Đái tháo đường (ĐTĐ) là một rối loạn chuyển hóa không đồng nhất, đặc trưng bởi tình trạng tăng đường huyết kèm theo rối loạn chuyển hóa carbohydrate, protein và chất béo, là kết quả của khiếm khuyết trong sự tiết insulin hoặc tác động của insulin hoặc cả hai.
Dịch tễ học
Năm 2021, có khoảng 537 triệu người trưởng thành trên toàn thế giới được chẩn đoán mắc bệnh đái tháo đường và con số này dự kiến sẽ tăng lên 643 triệu vào năm 2030 và 783 triệu vào năm 2045. Đái tháo đường típ 2 chiếm từ 90-95% tổng số ca mắc bệnh đái tháo đường.
Các quốc gia ở khu vực Tây Thái Bình Dương chiếm 38% số ca bệnh (206 triệu) vào năm 2021 và dự kiến sẽ tăng lên 238 triệu ca vào năm 2030 và 260 triệu ca vào năm 2045. Úc và New Zealand lần lượt có 1,4 triệu và 268.000 ca vào năm 2021. Trung Quốc có 140 triệu ca vào năm 2021. Hồng Kông có 686.000 ca vào năm 2021. Indonesia có 19 triệu ca vào năm 2021. Nhật Bản có 11 triệu ca vào năm 2021. Malaysia có 4,4 triệu ca vào năm 2021. Philippines có 4,3 triệu ca vào năm 2021. Singapore có 711.000 ca vào năm 2021. Thái Lan có 6,07 triệu ca vào năm 2021. Việt Nam có 3,9 triệu ca vào năm 2021. Các nước Đông Nam Á chiếm 90 triệu ca vào năm 2021 và dự kiến sẽ tăng lên lần lượt 113 triệu ca và 152 triệu ca vào năm 2030 và 2045. Ấn Độ có 74,2 triệu ca vào năm 2021.
Các quốc gia ở khu vực Tây Thái Bình Dương chiếm 38% số ca bệnh (206 triệu) vào năm 2021 và dự kiến sẽ tăng lên 238 triệu ca vào năm 2030 và 260 triệu ca vào năm 2045. Úc và New Zealand lần lượt có 1,4 triệu và 268.000 ca vào năm 2021. Trung Quốc có 140 triệu ca vào năm 2021. Hồng Kông có 686.000 ca vào năm 2021. Indonesia có 19 triệu ca vào năm 2021. Nhật Bản có 11 triệu ca vào năm 2021. Malaysia có 4,4 triệu ca vào năm 2021. Philippines có 4,3 triệu ca vào năm 2021. Singapore có 711.000 ca vào năm 2021. Thái Lan có 6,07 triệu ca vào năm 2021. Việt Nam có 3,9 triệu ca vào năm 2021. Các nước Đông Nam Á chiếm 90 triệu ca vào năm 2021 và dự kiến sẽ tăng lên lần lượt 113 triệu ca và 152 triệu ca vào năm 2030 và 2045. Ấn Độ có 74,2 triệu ca vào năm 2021.
Sinh lý bệnh
Đái tháo đường là một bệnh không đồng nhất gây ra bởi sự khiếm khuyết về tiết insulin và hoạt động của insulin. Các yếu tố di truyền và môi trường (ví dụ: tiền sử gia đình, chế độ ăn uống, hoạt động thể chất) đóng vai trò trong cơ chế bệnh sinh của đái tháo đường.
Đề kháng insulin liên quan đến các tình trạng khác đi kèm với đái tháo đường (ví dụ: viêm, rối loạn lipoprotein, tăng huyết áp, béo phì). Đề kháng insulin biểu hiện chủ yếu qua việc giảm vận chuyển và chuyển hóa glucose được kích thích bởi insulin trong cơ xương, suy giảm khả năng ức chế phân giải lipid của insulin và suy giảm khả năng ức chế sản xuất glucose ở gan của insulin. Tăng insulin máu được chứng minh là gây ra đề kháng insulin thông qua việc giảm điều hòa thụ thể insulin và làm mất nhạy cảm các đường dẫn tín hiệu sau thụ thể.
In vivo, sự kích hoạt mạn tính của thụ thể insulin do tăng insulin máu làm suy giảm tín hiệu insulin thông qua cơ chế ức chế ngược:
Quá trình xử lý insulin bị suy giảm được cho là có liên quan đến cơ chế bệnh sinh của bệnh đái tháo đường. Các nghiên cứu đã cho thấy sự gia tăng tiết proinsulin ở bệnh nhân, điều này gợi ý về sự giảm chuyển đổi proinsulin thành insulin, phản ánh sự rối loạn chức năng của tế bào beta, và thời gian không đủ để các hạt trưởng thành hoàn toàn trước khi phóng thích proinsulin.
Đề kháng insulin liên quan đến các tình trạng khác đi kèm với đái tháo đường (ví dụ: viêm, rối loạn lipoprotein, tăng huyết áp, béo phì). Đề kháng insulin biểu hiện chủ yếu qua việc giảm vận chuyển và chuyển hóa glucose được kích thích bởi insulin trong cơ xương, suy giảm khả năng ức chế phân giải lipid của insulin và suy giảm khả năng ức chế sản xuất glucose ở gan của insulin. Tăng insulin máu được chứng minh là gây ra đề kháng insulin thông qua việc giảm điều hòa thụ thể insulin và làm mất nhạy cảm các đường dẫn tín hiệu sau thụ thể.
In vivo, sự kích hoạt mạn tính của thụ thể insulin do tăng insulin máu làm suy giảm tín hiệu insulin thông qua cơ chế ức chế ngược:
- Phosphoryl hóa serine của cơ chất thụ thể insulin (insulin receptor substrate - IRS) làm tăng quá trình ubiquitin hóa và phân hủy các isoform (đồng dạng) của IRS, dẫn đến giảm tín hiệu insulin.
- Hoạt hóa mTOR làm tăng Grb10 và Grb14, những chất ức chế tín hiệu insulin.
- Hoạt hóa protein kinase được kích hoạt bởi mitogen (mitogen-activated protein kinase - MAPK) qua trung gian insulin dẫn đến sự kích hoạt kinase điều hòa tín hiệu ngoại bào (signal-regulated kinase - ERK), chất này ức chế chức năng của IRS.
- Các yếu tố phiên mã FoxO điều chỉnh việc phiên mã các thụ thể insulin và các chất ức chế khác của hoạt động Akt (như Trb3 và protein phosphatase 2A)
Quá trình xử lý insulin bị suy giảm được cho là có liên quan đến cơ chế bệnh sinh của bệnh đái tháo đường. Các nghiên cứu đã cho thấy sự gia tăng tiết proinsulin ở bệnh nhân, điều này gợi ý về sự giảm chuyển đổi proinsulin thành insulin, phản ánh sự rối loạn chức năng của tế bào beta, và thời gian không đủ để các hạt trưởng thành hoàn toàn trước khi phóng thích proinsulin.
Nguyên nhân
Nhiều yếu tố di truyền và môi trường khác nhau có thể gây ra sự mất dần khối lượng và/hoặc chức năng tế bào β, dẫn đến tình trạng tăng đường huyết lâm sàng ở cả đái tháo đường típ 1 và típ 2. Khi tăng đường huyết xảy ra, bệnh nhân mắc cả đái tháo đường típ 1 và típ 2 đều có nguy cơ phát triển các biến chứng giống nhau nhưng với tỷ lệ xuất hiện và tiến triển khác nhau. Việc phân loại chi tiết hơn các con đường dẫn đến rối loạn chức năng tế bào β là cần thiết để xác định các liệu pháp điều trị cá nhân hóa cho bệnh đái tháo đường.
Phân loại
Đái tháo đường có thể được phân loại thành đái tháo đường típ 1, típ 2, đái tháo đường thai kỳ và các dạng chuyên biệt khác.
Đái tháo đường típ 1
Đái tháo đường típ 1 chiếm 5-10% tổng số bệnh nhân đái tháo đường. Bệnh nhân thường dưới 35 tuổi, có tiền sử cá nhân hoặc gia đình mắc bệnh tự miễn hoặc hội chứng đa tuyến tự miễn, chỉ số khối cơ thể (BMI) dưới 25 kg/m2, tiền sử gia đình mắc đái tháo đường típ 1, kiểm soát đường huyết không hiệu quả ở bệnh nhân không dùng insulin và có sự hiện diện của các bệnh lý đi kèm (như tiền sử điều trị ung thư bằng chất ức chế điểm kiểm soát miễn dịch). Đái tháo đường típ 1 do tế bào β bị phá hủy dẫn đến sự thiếu insulin tuyệt đối, có thể qua trung gian miễn dịch hoặc tự phát.
Đái tháo đường típ 1 qua trung gian miễn dịch thường gặp ở trẻ em hoặc thanh thiếu niên nhưng có thể xảy ra ở bất kỳ độ tuổi nào. Sự tồn tại kéo dài của các dấu ấn tự miễn như kháng thể tế bào đảo tụy (islet cell antibodies - ICA) hoặc các tự kháng thể đảo tụy khác (như kháng thể kháng acid glutamic decarboxylase [GAD] 65, insulin, kháng nguyên tế bào tiểu đảo liên quan đến tyrosine phosphatase 2 [anti-IA-2] và IA-2 beta và kênh vận chuyển kẽm ZnT8) trong huyết thanh có thể giúp xác định chẩn đoán đái tháo đường típ 1.
Đái tháo đường típ 2
Đái tháo đường típ 2 là dạng đái tháo đường thường gặp nhất (chiếm 90% tổng số bệnh nhân đái tháo đường). Nó xảy ra do sự mất dần khả năng tiết insulin của tế bào β kết hợp với tình trạng đề kháng insulin. Các khiếm khuyết trong việc tiết insulin có liên quan đến viêm, stress chuyển hóa và các yếu tố di truyền. Đái tháo đường típ 2 thường xuất hiện ở bệnh nhân trên 30 tuổi, thừa cân hoặc béo phì hoặc có BMI từ 25 kg/m2 trở lên, không giảm cân và/hoặc gia đình có người bị đái tháo đường. Đái tháo đường típ 2 không có tự kháng thể.
Đái tháo đường thai kỳ*
Đái tháo đường thai kỳ là bệnh đái tháo đường được chẩn đoán trong thời kỳ mang thai (tam cá nguyệt thứ hai và thứ ba) mà trước khi mang thai không có.
*Vui lòng tham khảo biểu đồ quản lý bệnh Đái tháo đường thai kỳ để biết thêm thông tin chi tiết.
Các loại đái tháo đường khác
Có các dạng đái tháo đường chuyên biệt khác, là những nguyên nhân hiếm gặp của đái tháo đường bao gồm tình trạng hoặc bệnh nền đang diễn tiến đã biết trước đó. Ví dụ: khiếm khuyết di truyền trong chức năng tế bào β và hoạt động của insulin, các bệnh lý của tuyến tụy ngoại tiết hoặc thứ phát do sử dụng thuốc hoặc hóa chất.
Hội chứng đái tháo đường đơn gen (ví dụ: đái tháo đường sơ sinh, đái tháo đường khởi phát ở tuổi trưởng thành) được gợi ý khi có sự hiện diện của ≥1 trong các yếu tố sau: HbA1c <7,5% (<58 mmol/mol) tại thời điểm chẩn đoán, một trong hai bố mẹ mắc đái tháo đường, các đặc trưng của nguyên nhân đái tháo đường đơn gen cụ thể (như điếc do di truyền từ mẹ, loạn dưỡng mỡ một phần, nang thận, kháng insulin nghiêm trọng ở những người không béo phì) và xác suất mô hình dự đoán đái tháo đường đơn gen >5%.
Đái tháo đường típ 1
Đái tháo đường típ 1 chiếm 5-10% tổng số bệnh nhân đái tháo đường. Bệnh nhân thường dưới 35 tuổi, có tiền sử cá nhân hoặc gia đình mắc bệnh tự miễn hoặc hội chứng đa tuyến tự miễn, chỉ số khối cơ thể (BMI) dưới 25 kg/m2, tiền sử gia đình mắc đái tháo đường típ 1, kiểm soát đường huyết không hiệu quả ở bệnh nhân không dùng insulin và có sự hiện diện của các bệnh lý đi kèm (như tiền sử điều trị ung thư bằng chất ức chế điểm kiểm soát miễn dịch). Đái tháo đường típ 1 do tế bào β bị phá hủy dẫn đến sự thiếu insulin tuyệt đối, có thể qua trung gian miễn dịch hoặc tự phát.
Đái tháo đường típ 1 qua trung gian miễn dịch thường gặp ở trẻ em hoặc thanh thiếu niên nhưng có thể xảy ra ở bất kỳ độ tuổi nào. Sự tồn tại kéo dài của các dấu ấn tự miễn như kháng thể tế bào đảo tụy (islet cell antibodies - ICA) hoặc các tự kháng thể đảo tụy khác (như kháng thể kháng acid glutamic decarboxylase [GAD] 65, insulin, kháng nguyên tế bào tiểu đảo liên quan đến tyrosine phosphatase 2 [anti-IA-2] và IA-2 beta và kênh vận chuyển kẽm ZnT8) trong huyết thanh có thể giúp xác định chẩn đoán đái tháo đường típ 1.
Đái tháo đường típ 2
Đái tháo đường típ 2 là dạng đái tháo đường thường gặp nhất (chiếm 90% tổng số bệnh nhân đái tháo đường). Nó xảy ra do sự mất dần khả năng tiết insulin của tế bào β kết hợp với tình trạng đề kháng insulin. Các khiếm khuyết trong việc tiết insulin có liên quan đến viêm, stress chuyển hóa và các yếu tố di truyền. Đái tháo đường típ 2 thường xuất hiện ở bệnh nhân trên 30 tuổi, thừa cân hoặc béo phì hoặc có BMI từ 25 kg/m2 trở lên, không giảm cân và/hoặc gia đình có người bị đái tháo đường. Đái tháo đường típ 2 không có tự kháng thể.
Đái tháo đường thai kỳ*
Đái tháo đường thai kỳ là bệnh đái tháo đường được chẩn đoán trong thời kỳ mang thai (tam cá nguyệt thứ hai và thứ ba) mà trước khi mang thai không có.
*Vui lòng tham khảo biểu đồ quản lý bệnh Đái tháo đường thai kỳ để biết thêm thông tin chi tiết.
Các loại đái tháo đường khác
Có các dạng đái tháo đường chuyên biệt khác, là những nguyên nhân hiếm gặp của đái tháo đường bao gồm tình trạng hoặc bệnh nền đang diễn tiến đã biết trước đó. Ví dụ: khiếm khuyết di truyền trong chức năng tế bào β và hoạt động của insulin, các bệnh lý của tuyến tụy ngoại tiết hoặc thứ phát do sử dụng thuốc hoặc hóa chất.
Hội chứng đái tháo đường đơn gen (ví dụ: đái tháo đường sơ sinh, đái tháo đường khởi phát ở tuổi trưởng thành) được gợi ý khi có sự hiện diện của ≥1 trong các yếu tố sau: HbA1c <7,5% (<58 mmol/mol) tại thời điểm chẩn đoán, một trong hai bố mẹ mắc đái tháo đường, các đặc trưng của nguyên nhân đái tháo đường đơn gen cụ thể (như điếc do di truyền từ mẹ, loạn dưỡng mỡ một phần, nang thận, kháng insulin nghiêm trọng ở những người không béo phì) và xác suất mô hình dự đoán đái tháo đường đơn gen >5%.