Content:
Biểu hiện lâm sàng
Nội dung của trang này:
Biểu hiện lâm sàng
Tiền sử
Khám thực thể
Chẩn đoán hoặc Tiêu chuẩn chẩn đoán
Tầm soát
Nội dung của trang này:
Biểu hiện lâm sàng
Tiền sử
Khám thực thể
Chẩn đoán hoặc Tiêu chuẩn chẩn đoán
Tầm soát
Biểu hiện lâm sàng
Các triệu chứng chính liên quan đến bướu bao gồm ho, khó thở, ho ra máu và khò khè. Các triệu chứng do bệnh lan tràn trong lồng ngực có thể xâm nhiễm các dây thần kinh (khàn giọng, khó thở, teo cơ ở chi trên, hội chứng Horner), thành ngực và màng phổi (đau ngực, khó thở), các cấu trúc mạch máu (sưng mặt, giãn tĩnh mạch cổ, chèn ép tim, hội chứng tĩnh mạch chủ trên) và cơ quan tạng (khó nuốt). Các triệu chứng khác bao gồm khó chịu, sốt, chán ăn và sụt cân.
Lung Cancer_Initial Assesment
Đau xương có hoặc không có đau màng phổi, các triệu chứng thần kinh, yếu chân tay, dáng đi không vững, hạch cổ và các nốt sần trên da cũng có thể xuất hiện do di căn lan tràn.
Các hội chứng cận ung đã biết của ung thư phổi bao gồm tăng canxi huyết (buồn nôn và nôn, đau bụng, táo bón, tiểu nhiều, khát nước, mất nước, lú lẫn, kích thích), hội chứng sản xuất hormone chống bài niệu không phù hợp (SIADH) (khó chịu, yếu, lú lẫn, co giật, giảm thể tích, buồn nôn, suy giảm ý thức, hôn mê), hội chứng Cushing (yếu, teo cơ, suy giảm ý thức, lú lẫn, loạn thần, phù chi, nhiễm kiềm hạ kali máu, tăng đường huyết, tăng cân, mặt tròn như mặt trăng, tăng huyết áp) và các hội chứng khác (ngón tay dùi trống, bệnh phì đại xương khớp, hội chứng nhược cơ Eaton-Lambert, bệnh thần kinh ngoại biên, thoái hóa vỏ não tiểu não, hội chứng Trousseau).

Đau xương có hoặc không có đau màng phổi, các triệu chứng thần kinh, yếu chân tay, dáng đi không vững, hạch cổ và các nốt sần trên da cũng có thể xuất hiện do di căn lan tràn.
Các hội chứng cận ung đã biết của ung thư phổi bao gồm tăng canxi huyết (buồn nôn và nôn, đau bụng, táo bón, tiểu nhiều, khát nước, mất nước, lú lẫn, kích thích), hội chứng sản xuất hormone chống bài niệu không phù hợp (SIADH) (khó chịu, yếu, lú lẫn, co giật, giảm thể tích, buồn nôn, suy giảm ý thức, hôn mê), hội chứng Cushing (yếu, teo cơ, suy giảm ý thức, lú lẫn, loạn thần, phù chi, nhiễm kiềm hạ kali máu, tăng đường huyết, tăng cân, mặt tròn như mặt trăng, tăng huyết áp) và các hội chứng khác (ngón tay dùi trống, bệnh phì đại xương khớp, hội chứng nhược cơ Eaton-Lambert, bệnh thần kinh ngoại biên, thoái hóa vỏ não tiểu não, hội chứng Trousseau).
Tiền sử
Bệnh nhân cần được hỏi về tình trạng chóng mặt hoặc đau đầu để loại trừ di căn não, đau xương hoặc khớp để loại trừ di căn xương, và các triệu chứng khác ở đầu hoặc cổ để loại trừ các bướu khác.
Khám thực thể
Trong quá trình khám thực thể, 2 yếu tố quan trọng dự đoán sống còn của bệnh nhân sau khi điều trị là giảm cân và tình trạng hoạt động. Bệnh nhân giảm <10% trọng lượng so với trước khi điều trị và có thể di chuyển được có cơ hội sống còn tốt hơn. Do đó, việc đánh giá các thông số này trong quá trình khám thực thể để đánh giá yếu tố nguy cơ là rất quan trọng.
Chẩn đoán hoặc Tiêu chuẩn chẩn đoán
Chẩn đoán bệnh nhân sẽ phụ thuộc vào kích thước bướu, vị trí bướu, sự hiện diện của bệnh ở trung thất hoặc di căn xa, sự hiện diện của bệnh lý phổi và/hoặc các bệnh đi kèm khác, cũng như kinh nghiệm và chuyên môn của nhân viên y tế.
Tầm soát
Một số khuyến cáo đã được đưa ra về việc tầm soát ung thư phổi, bao gồm các khuyến cáo của Hiệp hội phẫu thuật lồng ngực Hoa Kỳ, Mạng lưới ung thư toàn diện quốc gia (NCCN), Lực lượng đặc nhiệm dịch vụ phòng ngừa Hoa Kỳ (USPSTF), Hiệp hội X-quang châu Âu (ESR) và Hiệp hội hô hấp châu Âu (ERS). NCCN, ESR và ERS khuyến cáo rằng việc tầm soát ung thư phổi nên được tiến hành trong các thử nghiệm lâm sàng hoặc thực hành lâm sàng thường quy tại các trung tâm y tế đa ngành, bao gồm những người từ 55 đến 80 tuổi, có tiền sử hút thuốc ≥30 gói-năm, hiện đang hút thuốc hoặc những người đã cai thuốc trong vòng 15 năm qua.
Việc tầm soát không được khuyến cáo ở những người có bệnh đi kèm cản trở điều trị chữa khỏi bệnh và không đồng ý điều trị chữa khỏi bệnh.
Thử nghiệm tầm soát
Thử nghiệm tầm soát phổi quốc gia (NLST) là thử nghiệm tầm soát phổi ngẫu nhiên có đối chứng đầu tiên tại Hoa Kỳ dành cho những người hiện đang hút thuốc hoặc đã từng hút thuốc >30 gói-năm, ở độ tuổi 55-74. Thử nghiệm tầm soát ONderzoek NEderlands-Leuvens châu Âu (NELSON) là thử nghiệm tầm soát lớn thứ hai và là thử nghiệm có đối chứng ngẫu nhiên lớn nhất tại châu Âu được sử dụng để đánh giá nguy cơ của bệnh nhân, dựa trên độ tuổi và tiền sử hút thuốc.
Khuyến cáo dành cho bệnh nhân có nốt phổi khi tầm soát ban đầu bằng chụp cắt lớp vi tính liều thấp (LDCT)
Nốt đặc
Đối với các nốt đặc nhỏ <6 mm, khuyến cáo chụp CT liều thấp hàng năm cho đến khi bệnh nhân không còn phù hợp với điều trị triệt để. Đối với các nốt đặc đơn lẻ ≥6 đến <8 mm, nên chụp CT liều thấp sau 6 tháng. Đối với các nốt đặc ≥8 đến <15 mm, nên cân nhắc chụp CT liều thấp sau 3 tháng và cũng có thể cân nhắc chụp PET/CT.
Đối với bệnh nhân có bướu đặc ≥15 mm, khuyến cáo chụp CT ngực có cản quang và/hoặc PET/CT. Nên cân nhắc chụp CT liều thấp sau 3 tháng ở những bệnh nhân có nguy cơ ung thư phổi thấp. Khuyến cáo sinh thiết hoặc cắt bỏ bằng phẫu thuật đối với những bệnh nhân có nguy cơ ung thư phổi cao.
Đối với bệnh nhân có nốt đặc trong phế quản, khuyến cáo chụp CT liều thấp sau ≤1 tháng, sau đó nội soi phế quản nếu không cải thiện.
Nốt bán đặc
Đối với các nốt bán đặc <6 mm, khuyến cáo chụp CT liều thấp hàng năm cho đến khi bệnh nhân không còn phù hợp với điều trị triệt để. Khuyến cáo chụp CT liều thấp sau 6 tháng đối với những bệnh nhân có nốt bán đặc ≥6 mm với thành phần đặc <6 mm. Nếu thành phần đặc ≥6 đến <8 mm, khuyến cáo chụp CT liều thấp sau 3 tháng kể từ lần tầm soát ban đầu hoặc cũng có thể cân nhắc chụp PET/CT.
Đối với những bệnh nhân có nốt bán đặc với thành phần đặc ≥8 mm, khuyến cáo chụp CT ngực có cản quang và/hoặc PET/CT. Nếu nghi ngờ cao ung thư phổi, nên cân nhắc sinh thiết hoặc cắt bỏ bằng phẫu thuật. Khuyến cáo chụp CT liều thấp sau 3 tháng đối với những bệnh nhân có nguy cơ ung thư phổi thấp.
Nốt không đặc
Khuyến cáo chụp CT liều thấp hàng năm đối với các nốt không đặc <20 mm cho đến khi bệnh nhân không còn phù hợp với điều trị triệt để. Khuyến cáo chụp CT liều thấp 6 tháng sau tầm soát ban đầu đối với những bệnh nhân có nốt không đặc ≥20 mm.
Khuyến cáo về theo dõi hoặc tầm soát hàng năm bằng cách sử dụng chụp CT liều thấp
Nốt mới
Đối với nghi ngờ nhiễm trùng hoặc viêm, nên chụp CT liều thấp trong vòng 1-3 tháng. Đối với nghi ngờ nhiễm trùng hoặc viêm đang khỏi, nên chụp CT liều thấp lại trong vòng 3-6 tháng cho đến khi hết bệnh hoặc ổn định. Đối với những bệnh nhân nghi ngờ nhiễm trùng hoặc viêm đã khỏi, nên chụp CT liều thấp hàng năm. Đối với những bệnh nhân nghi ngờ nhiễm trùng hoặc viêm dai dẳng, hoặc nốt đang to ra và những bệnh nhân không nghi ngờ viêm hoặc nhiễm trùng.
Vui lòng xem các khuyến nghị về Nốt đặc hoặc Nốt bán đặc hoặc Nốt không đặc trong mục Theo dõi để biết thêm thông tin.
Nốt đặc
Đối với nốt đặc <8 mm không thay đổi khi theo dõi, nên chụp CT liều thấp hàng năm. Đối với nốt đặc ≥8 đến <15 mm không thay đổi khi theo dõi, nên chụp CT liều thấp sau 6 tháng, nếu vẫn không thay đổi sau 6 tháng, nên chụp CT liều thấp hàng năm. Đối với nốt đặc ≥15 mm không thay đổi khi theo dõi, khuyến cáo chụp CT liều thấp trong 6 tháng hoặc chụp PET/CT.
Đối với các phát hiện không thay đổi sau một năm hoặc nốt đặc mới <4 mm khi theo dõi, vẫn khuyến cáo chụp CT liều thấp hàng năm. Đối với nốt đặc mới từ 4 đến <6 mm khi theo dõi, nên chụp CT liều thấp trong 6 tháng. Đối với nốt đặc mới từ 6 đến <8 mm khi theo dõi, nên chụp LDCT trong 3 tháng. Đối với nốt đặc mới ≥8 mm khi theo dõi, nên chụp CT ngực có cản quang và/hoặc chụp PET/CT. Đối với nốt phát triển ≤7 mm khi theo dõi, nên chụp CT liều thấp trong 3 tháng. Đối với nốt phát triển ≥8 mm khi theo dõi, nên chụp CT ngực có cản quang và/hoặc chụp PET/CT.
Dựa trên nguy cơ của bệnh nhân, nếu bệnh nhân có nguy cơ ung thư phổi thấp, khuyến cáo nên chụp CT liều thấp sau 3 tháng. Chụp CT liều thấp sau 3 tháng đối với nốt đặc ≥8 mm trên CT ngực có thuốc cản quang và/hoặc PET/CT đối với bệnh nhân có nguy cơ ung thư phổi thấp. Khuyến cáo nên sinh thiết hoặc cắt bỏ bằng phẫu thuật đối với bệnh nhân có nguy cơ ung thư phổi cao.
Nốt bán đặc
Đối với nốt đặc một phần có kích thước <6 mm không thay đổi khi chụp CT liều thấp theo dõi và nốt đặc một phần có kích thước ≥6 mm, với thành phần đặc <6 mm, cũng khuyến cáo nên chụp CT liều thấp hàng năm. Đối với nốt đặc một phần có kích thước ≥6 mm và có thành phần đặc ≥6 đến <8 mm, khuyến cáo nên chụp CT liều thấp sau 6 tháng hoặc chụp PET/CT. Nếu có nguy cơ ung thư phổi thấp, khuyến cáo nên chụp LDCT sau 6 tháng. Khuyến cáo nên sinh thiết hoặc cắt bỏ bằng phẫu thuật đối với bệnh nhân có nguy cơ ung thư phổi cao.
Nếu nốt bán đặckhông thay đổi, nên chụp CT liều thấp hàng năm. Đối với nốt bán đặc mới có kích thước <6 mm khi theo dõi, nên chụp CT liều thấp sau 6 tháng. Đối với nốt bán đặc mới hoặc đang phát triển có kích thước ≥6 mm với thành phần đặc phát triển <4 mm khi theo dõi, nên chụp CT liều thấp sau 3 tháng.
Đối với nốt bán đặc mới hoặc đang phát triển có thành phần đặc ≥4 mm, nên chụp CT ngực có cản quang và/hoặc chụp PET/CT. Nếu có nguy cơ ung thư phổi thấp, nên chụp LDCT sau 3 tháng. Khuyến cáo sinh thiết hoặc cắt bỏ bằng phẫu thuật đối với những bệnh nhân có nguy cơ ung thư phổi cao.
Nốt không đặc
Đối với các nốt không đặc mới và ổn định có kích thước <20 mm, nên chụp CT liều thấp hàng năm. Đối với các nốt không đặc mới và ổn định có kích thước ≥20 mm, nên chụp CT liều thấp sau 6 tháng, sau đó chụp hàng năm khi đã ổn định. Đối với các nốt không ổn định phát triển có kích thước <20 mm, nên chụp CT liều thấp sau 6 tháng. Đối với các nốt không đặc phát triển có kích thước ≥20 mm, nên chụp CT liều thấp sau 6 tháng, hoặc có thể cân nhắc sinh thiết hoặc cắt bỏ bằng phẫu thuật.
Nhiều nốt không đặc
Đối với các nốt không đặc thuần túy, đo nốt lớn nhất và xử trí dựa trên kích thước như là nốt không đặc hoặc nốt bán đặc. Đối với các nốt có thành phần bán đặc chiếm ưu thế, đo nốt lớn nhất và xử trí như nốt bán đặc hoặc nốt đặc dựa trên kích thước. Cần xác định tất cả các nốt bán đặc ≥6 mm và đo các vùng đặc.
Đối với những bệnh nhân có nguy cơ cao mắc ung thư phổi mà không có bướu ác tính ở phổi trên phim CT liều thấp, sinh thiết hoặc cắt bỏ bằng phẫu thuật, tầm soát hàng năm bằng chụp CT liều thấp được khuyến cáo. Nên thực hiện cho đến khi bệnh nhân không còn phù hợp với điều trị triệt để.
Nên chụp CT liều thấp theo dõi sau 1-3 tháng đối với những bệnh nhân có nhiều nốt hoặc các phát hiện khác gợi ý khả năng nhiễm trùng hoặc viêm tiềm ẩn.
Việc tầm soát không được khuyến cáo ở những người có bệnh đi kèm cản trở điều trị chữa khỏi bệnh và không đồng ý điều trị chữa khỏi bệnh.
Thử nghiệm tầm soát
Thử nghiệm tầm soát phổi quốc gia (NLST) là thử nghiệm tầm soát phổi ngẫu nhiên có đối chứng đầu tiên tại Hoa Kỳ dành cho những người hiện đang hút thuốc hoặc đã từng hút thuốc >30 gói-năm, ở độ tuổi 55-74. Thử nghiệm tầm soát ONderzoek NEderlands-Leuvens châu Âu (NELSON) là thử nghiệm tầm soát lớn thứ hai và là thử nghiệm có đối chứng ngẫu nhiên lớn nhất tại châu Âu được sử dụng để đánh giá nguy cơ của bệnh nhân, dựa trên độ tuổi và tiền sử hút thuốc.
Khuyến cáo dành cho bệnh nhân có nốt phổi khi tầm soát ban đầu bằng chụp cắt lớp vi tính liều thấp (LDCT)
Nốt đặc
Đối với các nốt đặc nhỏ <6 mm, khuyến cáo chụp CT liều thấp hàng năm cho đến khi bệnh nhân không còn phù hợp với điều trị triệt để. Đối với các nốt đặc đơn lẻ ≥6 đến <8 mm, nên chụp CT liều thấp sau 6 tháng. Đối với các nốt đặc ≥8 đến <15 mm, nên cân nhắc chụp CT liều thấp sau 3 tháng và cũng có thể cân nhắc chụp PET/CT.
Đối với bệnh nhân có bướu đặc ≥15 mm, khuyến cáo chụp CT ngực có cản quang và/hoặc PET/CT. Nên cân nhắc chụp CT liều thấp sau 3 tháng ở những bệnh nhân có nguy cơ ung thư phổi thấp. Khuyến cáo sinh thiết hoặc cắt bỏ bằng phẫu thuật đối với những bệnh nhân có nguy cơ ung thư phổi cao.
Đối với bệnh nhân có nốt đặc trong phế quản, khuyến cáo chụp CT liều thấp sau ≤1 tháng, sau đó nội soi phế quản nếu không cải thiện.
Nốt bán đặc
Đối với các nốt bán đặc <6 mm, khuyến cáo chụp CT liều thấp hàng năm cho đến khi bệnh nhân không còn phù hợp với điều trị triệt để. Khuyến cáo chụp CT liều thấp sau 6 tháng đối với những bệnh nhân có nốt bán đặc ≥6 mm với thành phần đặc <6 mm. Nếu thành phần đặc ≥6 đến <8 mm, khuyến cáo chụp CT liều thấp sau 3 tháng kể từ lần tầm soát ban đầu hoặc cũng có thể cân nhắc chụp PET/CT.
Đối với những bệnh nhân có nốt bán đặc với thành phần đặc ≥8 mm, khuyến cáo chụp CT ngực có cản quang và/hoặc PET/CT. Nếu nghi ngờ cao ung thư phổi, nên cân nhắc sinh thiết hoặc cắt bỏ bằng phẫu thuật. Khuyến cáo chụp CT liều thấp sau 3 tháng đối với những bệnh nhân có nguy cơ ung thư phổi thấp.
Nốt không đặc
Khuyến cáo chụp CT liều thấp hàng năm đối với các nốt không đặc <20 mm cho đến khi bệnh nhân không còn phù hợp với điều trị triệt để. Khuyến cáo chụp CT liều thấp 6 tháng sau tầm soát ban đầu đối với những bệnh nhân có nốt không đặc ≥20 mm.
Khuyến cáo về theo dõi hoặc tầm soát hàng năm bằng cách sử dụng chụp CT liều thấp
Nốt mới
Đối với nghi ngờ nhiễm trùng hoặc viêm, nên chụp CT liều thấp trong vòng 1-3 tháng. Đối với nghi ngờ nhiễm trùng hoặc viêm đang khỏi, nên chụp CT liều thấp lại trong vòng 3-6 tháng cho đến khi hết bệnh hoặc ổn định. Đối với những bệnh nhân nghi ngờ nhiễm trùng hoặc viêm đã khỏi, nên chụp CT liều thấp hàng năm. Đối với những bệnh nhân nghi ngờ nhiễm trùng hoặc viêm dai dẳng, hoặc nốt đang to ra và những bệnh nhân không nghi ngờ viêm hoặc nhiễm trùng.
Vui lòng xem các khuyến nghị về Nốt đặc hoặc Nốt bán đặc hoặc Nốt không đặc trong mục Theo dõi để biết thêm thông tin.
Nốt đặc
Đối với nốt đặc <8 mm không thay đổi khi theo dõi, nên chụp CT liều thấp hàng năm. Đối với nốt đặc ≥8 đến <15 mm không thay đổi khi theo dõi, nên chụp CT liều thấp sau 6 tháng, nếu vẫn không thay đổi sau 6 tháng, nên chụp CT liều thấp hàng năm. Đối với nốt đặc ≥15 mm không thay đổi khi theo dõi, khuyến cáo chụp CT liều thấp trong 6 tháng hoặc chụp PET/CT.
Đối với các phát hiện không thay đổi sau một năm hoặc nốt đặc mới <4 mm khi theo dõi, vẫn khuyến cáo chụp CT liều thấp hàng năm. Đối với nốt đặc mới từ 4 đến <6 mm khi theo dõi, nên chụp CT liều thấp trong 6 tháng. Đối với nốt đặc mới từ 6 đến <8 mm khi theo dõi, nên chụp LDCT trong 3 tháng. Đối với nốt đặc mới ≥8 mm khi theo dõi, nên chụp CT ngực có cản quang và/hoặc chụp PET/CT. Đối với nốt phát triển ≤7 mm khi theo dõi, nên chụp CT liều thấp trong 3 tháng. Đối với nốt phát triển ≥8 mm khi theo dõi, nên chụp CT ngực có cản quang và/hoặc chụp PET/CT.
Dựa trên nguy cơ của bệnh nhân, nếu bệnh nhân có nguy cơ ung thư phổi thấp, khuyến cáo nên chụp CT liều thấp sau 3 tháng. Chụp CT liều thấp sau 3 tháng đối với nốt đặc ≥8 mm trên CT ngực có thuốc cản quang và/hoặc PET/CT đối với bệnh nhân có nguy cơ ung thư phổi thấp. Khuyến cáo nên sinh thiết hoặc cắt bỏ bằng phẫu thuật đối với bệnh nhân có nguy cơ ung thư phổi cao.
Nốt bán đặc
Đối với nốt đặc một phần có kích thước <6 mm không thay đổi khi chụp CT liều thấp theo dõi và nốt đặc một phần có kích thước ≥6 mm, với thành phần đặc <6 mm, cũng khuyến cáo nên chụp CT liều thấp hàng năm. Đối với nốt đặc một phần có kích thước ≥6 mm và có thành phần đặc ≥6 đến <8 mm, khuyến cáo nên chụp CT liều thấp sau 6 tháng hoặc chụp PET/CT. Nếu có nguy cơ ung thư phổi thấp, khuyến cáo nên chụp LDCT sau 6 tháng. Khuyến cáo nên sinh thiết hoặc cắt bỏ bằng phẫu thuật đối với bệnh nhân có nguy cơ ung thư phổi cao.
Nếu nốt bán đặckhông thay đổi, nên chụp CT liều thấp hàng năm. Đối với nốt bán đặc mới có kích thước <6 mm khi theo dõi, nên chụp CT liều thấp sau 6 tháng. Đối với nốt bán đặc mới hoặc đang phát triển có kích thước ≥6 mm với thành phần đặc phát triển <4 mm khi theo dõi, nên chụp CT liều thấp sau 3 tháng.
Đối với nốt bán đặc mới hoặc đang phát triển có thành phần đặc ≥4 mm, nên chụp CT ngực có cản quang và/hoặc chụp PET/CT. Nếu có nguy cơ ung thư phổi thấp, nên chụp LDCT sau 3 tháng. Khuyến cáo sinh thiết hoặc cắt bỏ bằng phẫu thuật đối với những bệnh nhân có nguy cơ ung thư phổi cao.
Nốt không đặc
Đối với các nốt không đặc mới và ổn định có kích thước <20 mm, nên chụp CT liều thấp hàng năm. Đối với các nốt không đặc mới và ổn định có kích thước ≥20 mm, nên chụp CT liều thấp sau 6 tháng, sau đó chụp hàng năm khi đã ổn định. Đối với các nốt không ổn định phát triển có kích thước <20 mm, nên chụp CT liều thấp sau 6 tháng. Đối với các nốt không đặc phát triển có kích thước ≥20 mm, nên chụp CT liều thấp sau 6 tháng, hoặc có thể cân nhắc sinh thiết hoặc cắt bỏ bằng phẫu thuật.
Nhiều nốt không đặc
Đối với các nốt không đặc thuần túy, đo nốt lớn nhất và xử trí dựa trên kích thước như là nốt không đặc hoặc nốt bán đặc. Đối với các nốt có thành phần bán đặc chiếm ưu thế, đo nốt lớn nhất và xử trí như nốt bán đặc hoặc nốt đặc dựa trên kích thước. Cần xác định tất cả các nốt bán đặc ≥6 mm và đo các vùng đặc.
Đối với những bệnh nhân có nguy cơ cao mắc ung thư phổi mà không có bướu ác tính ở phổi trên phim CT liều thấp, sinh thiết hoặc cắt bỏ bằng phẫu thuật, tầm soát hàng năm bằng chụp CT liều thấp được khuyến cáo. Nên thực hiện cho đến khi bệnh nhân không còn phù hợp với điều trị triệt để.
Nên chụp CT liều thấp theo dõi sau 1-3 tháng đối với những bệnh nhân có nhiều nốt hoặc các phát hiện khác gợi ý khả năng nhiễm trùng hoặc viêm tiềm ẩn.