Content:
Xét nghiệm và hỗ trợ chẩn đoán
Nội dung của trang này:
Xét nghiệm và hỗ trợ chẩn đoán
Hình ảnh học
Nội dung của trang này:
Xét nghiệm và hỗ trợ chẩn đoán
Hình ảnh học
Xét nghiệm và hỗ trợ chẩn đoán
Đánh giá ban đầu ở phụ nữ
Các xét nghiệm chẩn đoán
Dùng que thử nước tiểu và phân tích nước tiểu kèm hoặc không kèm nuôi cấy nước tiểu và kháng sinh đồ có thể được thực hiện, và tế bào học nước tiểu, nếu có tiểu máu hoặc đau vùng chậu. Hemoglobin A1c (HbA1c) cũng có thể được xét nghiệm. Yêu cầu xét nghiệm creatinine huyết thanh và urê máu (BUN) để kiểm tra chức năng thận.
Thử nghiệm gắng sức khi ho
Bệnh nhân chưa đi tiểu được yêu cầu đứng trên miếng lót, sau đó ho mạnh. Quan sát xem có rò rỉ nước tiểu trên miếng lót hay không. Nếu nước tiểu rỉ ra ngay lập tức thì nghĩ đến chẩn đoán tiểu không tự chủ do áp lực, nếu nước tiểu rỉ ra chậm hơn thì nghĩ đến tiểu không tự chủ hỗn hợp.
Thể tích nước tiểu tồn dư sau đi tiểu (PVRV)
Cần cân nhắc đo thể tích nước tiểu tồn dư sau đi tiểu nếu bệnh nhân có triệu chứng rối loạn đi tiểu hoặc tiền sử nhiễm khuẩn đường tiết niệu (UTI) tái diễn, đã phẫu thuật điều trị tiểu không tự chủ, sa tạng chậu đáng kể hoặc chấn thương tủy sống. Phương pháp này cũng nên sử dụng để theo dõi bệnh nhân đang điều trị, việc điều trị có thể gây ra hoặc làm rối loạn đi tiểu nặng hơn. Đặt ống thông tiểu là phương pháp chính xác nhất, nhưng siêu âm có thể được ưu tiên do bệnh nhân dễ chấp nhận hơn, tránh nhiễm trùng và ít biến cố bất lợi do thủ thuật. PVRV <50 mL được coi là tiểu hết trong khi PVRV >200 mL là có tồn dư nước tiểu. PVRV liên tục >150 mL thì cần đánh giá thêm.
Niệu động học
Đo niệu động học (urodynamics) chỉ nên xem xét ở phụ nữ có triệu chứng UI phức tạp hoặc kháng trị. Phương pháp này hỗ trợ hoặc xác nhận chẩn đoán UI nếu có mâu thuẫn giữa tiền sử và khám thực thể. Phương pháp này thường được thực hiện trước điều trị UI xâm lấn. Đo niệu động học nên được thực hiện nếu kết quả có thể ảnh hưởng đến lựa chọn phương pháp điều trị xâm lấn. Không nên đo áp lực bàng quang khi đầy và khi rỗng đa kênh trước khi phẫu thuật ban đầu nếu bệnh nhân được chẩn đoán tiểu không tự chủ gắng sức hoặc tiểu không tự chủ hỗn hợp ưu thế gắng sức.
Chuyển tuyến chuyên khoa
Nên cân nhắc chuyển tuyến chuyên khoa ở bệnh nhân có tiền sử phức tạp (ví dụ UI tái diễn hoặc UI kèm tiểu máu, đau, UTI tái diễn, nghi ngờ rò đường tiết niệu, phẫu thuật vùng chậu hoặc xạ trị, sa tạng chậu và/hoặc triệu chứng rối loạn đi tiểu).
Đánh giá ban đầu ở nam giới
Các xét nghiệm chẩn đoán
Tổng phân tích nước tiểu kèm hoặc không kèm xét nghiệm cấy nước tiểu nên là một phần của đánh giá ban đầu. Nếu phát hiện nhiễm khuẩn, điều trị và đánh giá lại.
Thể tích nước tiểu tồn dư sau đi tiểu (PVR)
PVR đo lượng nước tiểu còn lại trong bàng quang sau khi đi tiểu. Phương pháp này cho biết hiệu quả đi tiểu và nên là một phần của đánh giá ban đầu ở nam giới vì có liên quan đến triệu chứng UI. Đặt ống thông tiểu là phương pháp chính xác nhất, nhưng có thể ưu tiên siêu âm để tránh nhiễm trùng và bệnh nhân dễ chấp nhận hơn. Xem xét vấn đề rối loạn đi tiểu ở bệnh nhân có PVR dai dẳng >100 mL.
Tốc độ dòng tiểu
Tốc độ dòng tiểu có thể xác định qua tiền sử lâm sàng chi tiết.
Thử nghiệm miếng lót
Thử nghiệm miếng lót thực hiện bằng cách đeo miếng lót thấm hút trong một khoảng thời gian hoặc trong quá trình tập thể dục để đo lượng nước tiểu rỉ ra. Có thể dùng để xác định và đánh giá mức độ UI và cũng để đánh giá đáp ứng điều trị của bệnh nhân.
Chuyển tuyến chuyên khoa
Nên cân nhắc chuyển tuyến chuyên khoa ở bệnh nhân có tiền sử phức tạp (ví dụ UI tái phát hoặc UI kèm tiểu máu, đau, UTI tái phát, xạ trị tiền liệt tuyến, phẫu thuật vùng chậu hoặc xạ trị và/hoặc triệu chứng rối loạn đi tiểu).
Các xét nghiệm chẩn đoán
Dùng que thử nước tiểu và phân tích nước tiểu kèm hoặc không kèm nuôi cấy nước tiểu và kháng sinh đồ có thể được thực hiện, và tế bào học nước tiểu, nếu có tiểu máu hoặc đau vùng chậu. Hemoglobin A1c (HbA1c) cũng có thể được xét nghiệm. Yêu cầu xét nghiệm creatinine huyết thanh và urê máu (BUN) để kiểm tra chức năng thận.
Thử nghiệm gắng sức khi ho
Bệnh nhân chưa đi tiểu được yêu cầu đứng trên miếng lót, sau đó ho mạnh. Quan sát xem có rò rỉ nước tiểu trên miếng lót hay không. Nếu nước tiểu rỉ ra ngay lập tức thì nghĩ đến chẩn đoán tiểu không tự chủ do áp lực, nếu nước tiểu rỉ ra chậm hơn thì nghĩ đến tiểu không tự chủ hỗn hợp.
Thể tích nước tiểu tồn dư sau đi tiểu (PVRV)
Cần cân nhắc đo thể tích nước tiểu tồn dư sau đi tiểu nếu bệnh nhân có triệu chứng rối loạn đi tiểu hoặc tiền sử nhiễm khuẩn đường tiết niệu (UTI) tái diễn, đã phẫu thuật điều trị tiểu không tự chủ, sa tạng chậu đáng kể hoặc chấn thương tủy sống. Phương pháp này cũng nên sử dụng để theo dõi bệnh nhân đang điều trị, việc điều trị có thể gây ra hoặc làm rối loạn đi tiểu nặng hơn. Đặt ống thông tiểu là phương pháp chính xác nhất, nhưng siêu âm có thể được ưu tiên do bệnh nhân dễ chấp nhận hơn, tránh nhiễm trùng và ít biến cố bất lợi do thủ thuật. PVRV <50 mL được coi là tiểu hết trong khi PVRV >200 mL là có tồn dư nước tiểu. PVRV liên tục >150 mL thì cần đánh giá thêm.
Niệu động học
Đo niệu động học (urodynamics) chỉ nên xem xét ở phụ nữ có triệu chứng UI phức tạp hoặc kháng trị. Phương pháp này hỗ trợ hoặc xác nhận chẩn đoán UI nếu có mâu thuẫn giữa tiền sử và khám thực thể. Phương pháp này thường được thực hiện trước điều trị UI xâm lấn. Đo niệu động học nên được thực hiện nếu kết quả có thể ảnh hưởng đến lựa chọn phương pháp điều trị xâm lấn. Không nên đo áp lực bàng quang khi đầy và khi rỗng đa kênh trước khi phẫu thuật ban đầu nếu bệnh nhân được chẩn đoán tiểu không tự chủ gắng sức hoặc tiểu không tự chủ hỗn hợp ưu thế gắng sức.
Chuyển tuyến chuyên khoa
Nên cân nhắc chuyển tuyến chuyên khoa ở bệnh nhân có tiền sử phức tạp (ví dụ UI tái diễn hoặc UI kèm tiểu máu, đau, UTI tái diễn, nghi ngờ rò đường tiết niệu, phẫu thuật vùng chậu hoặc xạ trị, sa tạng chậu và/hoặc triệu chứng rối loạn đi tiểu).
Đánh giá ban đầu ở nam giới
Các xét nghiệm chẩn đoán
Tổng phân tích nước tiểu kèm hoặc không kèm xét nghiệm cấy nước tiểu nên là một phần của đánh giá ban đầu. Nếu phát hiện nhiễm khuẩn, điều trị và đánh giá lại.
Thể tích nước tiểu tồn dư sau đi tiểu (PVR)
PVR đo lượng nước tiểu còn lại trong bàng quang sau khi đi tiểu. Phương pháp này cho biết hiệu quả đi tiểu và nên là một phần của đánh giá ban đầu ở nam giới vì có liên quan đến triệu chứng UI. Đặt ống thông tiểu là phương pháp chính xác nhất, nhưng có thể ưu tiên siêu âm để tránh nhiễm trùng và bệnh nhân dễ chấp nhận hơn. Xem xét vấn đề rối loạn đi tiểu ở bệnh nhân có PVR dai dẳng >100 mL.
Tốc độ dòng tiểu
Tốc độ dòng tiểu có thể xác định qua tiền sử lâm sàng chi tiết.
Thử nghiệm miếng lót
Thử nghiệm miếng lót thực hiện bằng cách đeo miếng lót thấm hút trong một khoảng thời gian hoặc trong quá trình tập thể dục để đo lượng nước tiểu rỉ ra. Có thể dùng để xác định và đánh giá mức độ UI và cũng để đánh giá đáp ứng điều trị của bệnh nhân.
Chuyển tuyến chuyên khoa
Nên cân nhắc chuyển tuyến chuyên khoa ở bệnh nhân có tiền sử phức tạp (ví dụ UI tái phát hoặc UI kèm tiểu máu, đau, UTI tái phát, xạ trị tiền liệt tuyến, phẫu thuật vùng chậu hoặc xạ trị và/hoặc triệu chứng rối loạn đi tiểu).
Hình ảnh học
Đánh giá bằng siêu âm thận để loại trừ thận ứ nước hoặc ứ nước niệu quản ở phụ nữ sa tạng chậu tiến triển. Chụp X-quang bàng quang niệu khi đi tiểu để kiểm tra UI gắng sức, thoát vị bàng quang (cystocele) và mức độ di động của niệu đạo. Thực hiện chụp X-quang thận có thuốc cản quang đường tĩnh mạch để loại trừ bất thường khi phát triển, dị dạng đường tiết niệu và lỗ rò.
Nội soi bàng quang nên thực hiện ở phụ nữ có tiểu máu đại thể hoặc UI phức tạp và có thể chỉ định ở những người UI kháng trị, rò hoặc chấn thương niệu dục do can thiệp y tế và tình trạng nhỏ giọt dai dẳng sau tiểu. Trong đánh giá UI do gắng sức không phức tạp ở phụ nữ, việc khảo sát hình ảnh đường tiết niệu trên hoặc dưới không nên thực hiện thường quy.
Nội soi bàng quang nên thực hiện ở phụ nữ có tiểu máu đại thể hoặc UI phức tạp và có thể chỉ định ở những người UI kháng trị, rò hoặc chấn thương niệu dục do can thiệp y tế và tình trạng nhỏ giọt dai dẳng sau tiểu. Trong đánh giá UI do gắng sức không phức tạp ở phụ nữ, việc khảo sát hình ảnh đường tiết niệu trên hoặc dưới không nên thực hiện thường quy.
