Thiếu máu thiếu sắt Xử trí

Cập nhật: 13 June 2025

Nội dung của trang này:

Nội dung của trang này:

Nguyên tắc điều trị

Thiếu máu thiếu sắt gây ra bởi một tình trạng tiềm ẩn nên được điều trị hoặc chuyển đến chuyên khoa để thăm khám thêm và điều trị dứt điểm. Bệnh nhân thiếu máu thiếu sắt đáp ứng tốt với liệu pháp bổ sung sắt.

Điều trị bằng thuốc

Liệu pháp bổ sung sắt (đường uống)

Đường uống là đường dùng ưu tiên để điều trị bằng sắt. Các chế phẩm uống bao gồm muối sắt (II) (ví dụ: sắt sulfat, sắt gluconat, sắt fumarat), phức hợp sắt (III) polymaltose và sắt liposome. Sắt (II) đường uống dễ hấp thu do độ hòa tan cao hơn trong khi sắt (III) có thời gian hấp thu chủ động dài hơn, nhưng cả hai đều hiệu quả trong việc điều chỉnh tình trạng thiếu máu do thiếu sắt. Sắt carbonyl bao gồm các hạt vi mô sắt nguyên tố; do đó, nó không phải là muối sắt, tuy nhiên, nó cũng được sử dụng cho bệnh thiếu máu do thiếu sắt. Liều lượng sắt nguyên tố cần thiết để điều trị thiếu máu thiếu sắt ở người lớn là 100-200 mg/ngày trong 3 tháng. Liều khuyến cáo cho trẻ em là 3-6 mg sắt nguyên tố/kg/ngày ở dạng lỏng trong 3-4 tháng. Các tác dụng không mong muốn trên đường tiêu hóa như khó chịu vùng thượng vị, buồn nôn, tiêu chảy, vị kim loại, phân xanh đen và táo bón từ nhẹ đến nặng (thường ở phụ nữ mang thai) có thể gây ra việc không tuân thủ điều trị. Cần lưu ý rằng những tác dụng không mong muốn trên đường tiêu hóa này thường thấy ở các dạng sắt (II) và có thể giảm thiểu bằng cách uống bổ sung sắt sau bữa ăn mặc dù điều này có thể làm giảm hấp thu. Các tác dụng không mong muốn như vậy cũng có thể giảm bằng cách dùng thuốc cách ngày. Sắt (III) và các muối sắt (II) giải phóng chậm và phức hợp sắt (III) polymaltose ít gây rối loạn tiêu hóa hơn, do đó có tỷ lệ dung nạp tốt hơn. Sắt liposome, một chế phẩm sắt (III) pyrophosphate kết hợp với acid ascorbic và được vận chuyển bên trong màng phospholipid, có tỷ lệ tác dụng không mong muốn thấp và sinh khả dụng cao. Các chế phẩm bao tan ở ruột cũng có thể cải thiện khả năng dung nạp nhưng làm giảm sự hấp thu.

Sự hấp thu sắt được tăng cường trong môi trường có tính acid nhẹ; do đó, bổ sung acid ascorbic (bằng viên uống hoặc nửa cốc nước cam) đã được gợi ý. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng acid ascorbic có thể khắc phục tác động tiêu cực lên sự hấp thu sắt của tất cả các chất ức chế, bao gồm phytate, polyphenol và canxi cũng như protein trong các sản phẩm từ sữa, và nó sẽ làm tăng sự hấp thu cả sắt tự nhiên và sắt bổ sung. Việc sử dụng thuốc ức chế bơm proton và các thuốc gây giảm tiết acid dạ dày có thể làm giảm sự hấp thu sắt. Khi đã có đáp ứng đầy đủ với điều trị (tăng hemoglobin 1 g/dL) sau một tháng, nên tiếp tục điều trị trong 3-6 tháng để dự trữ sắt được phục hồi. Chuyển sang dùng sắt uống liều thấp để duy trì khi tình trạng thiếu máu thiếu sắt đã được giải quyết. Liệu pháp đường uống kết hợp sắt, acid folic, vitamin B12 và vitamin C dễ dàng sử dụng hơn ở phụ nữ so với các chế phẩm sắt uống đơn thành phần.

Liệu pháp bổ sung sắt (đường tĩnh mạch)

Liệu pháp bổ sung sắt đường tĩnh mạch được chỉ định ở những bệnh nhân không dung nạp hoặc không hấp thu được các chế phẩm uống (ví dụ: tiền sử phẫu thuật dạ dày), những người không đáp ứng đầy đủ với liệu pháp uống phù hợp, những người không dung nạp điều trị thử nghiệm với 2 loại thuốc sắt uống khác nhau, với nồng độ hemoglobin tiếp tục giảm, các triệu chứng bệnh viêm ruột tiến triển, chảy máu không cầm và bệnh thận mạn tính (CKD) hoặc thiếu máu do suy thận được điều trị bằng erythropoietin.

Liệu pháp bổ sung sắt đường tĩnh mạch (IV) cũng được chỉ định nếu tình trạng bệnh cần sự cải thiện nồng độ hemoglobin nhanh chóng hoặc lượng máu mất hoặc lượng sắt cần bổ sung vượt quá khả năng hấp thu của đường tiêu hóa đối với các chế phẩm sắt uống. Liệu pháp bổ sung sắt đường tĩnh mạch được ưu tiên ở bệnh nhân chạy thận nhân tạo. Sắt dextran, sắt sorbitol, sắt sucrose, sắt carboxymaltose, natri sắt gluconate là các dạng sắt đường tiêm phổ biến nhất. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng liệu pháp bổ sung sắt đường tĩnh mạch có nguy cơ gây ra các phản ứng dị ứng nghiêm trọng. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng sắt dextran có trọng lượng phân tử cao có nguy cơ cao hơn so với sắt dextran có trọng lượng phân tử thấp và các dạng không phải dextran (ví dụ: sắt sucrose, natri ferric gluconate). Việc sử dụng không đủ liệu pháp bổ sung sắt đường tĩnh mạch có thể một phần xuất phát từ những lo ngại về nguy cơ phản ứng dị ứng nghiêm trọng. Tiêm bắp (IM) sắt không được khuyến khích do liên quan đến đau, tăng sắc tố da vĩnh viễn, hấp thu không ổn định và không an toàn hơn so với truyền tĩnh mạch. Cuối cùng, có thể thực hiện truyền "tổng liều" (trong đó dự trữ sắt có thể được bổ sung trong một lần điều trị duy nhất).

Điều trị không dùng thuốc

Liệu pháp dinh dưỡng

Để hỗ trợ bổ sung sắt và phòng ngừa thứ phát tình trạng thiếu sắt, nên tăng cường lượng sắt trong chế độ ăn. Thực phẩm giàu sắt bao gồm thịt đỏ, thịt gà, cá, các loại đậu và rau lá xanh. Lượng sữa bò tiêu thụ được giới hạn ở mức 500 mL/ngày. Các chất ức chế hấp thu sắt (ví dụ: canxi, tannin trong cà phê và trà, sữa và các sản phẩm từ sữa, phytate trong ngũ cốc, kháng sinh quinolone và tetracycline) nên được giảm hoặc loại bỏ khỏi các bữa ăn chứa nhiều sắt.

Truyền máu

Truyền máu được chỉ định ở những bệnh nhân huyết động không ổn định do đang chảy máu, phụ nữ mang thai có nồng độ hemoglobin <6 g/dL và/hoặc những người có bằng chứng về thiếu máu cục bộ ở các cơ quan đích. Điều cần thiết là phải đánh giá tình trạng lâm sàng và các triệu chứng của bệnh nhân để quyết định xem có cần truyền máu hay không.

Anemia - Iron-Deficiency_ManagementAnemia - Iron-Deficiency_Management